Nguyễn Văn Nghệ
19/12/2019
Mặc dù tôi không đặt mua Tuần báo Giác Ngộ, nhưng lại
là độc giả của Tuần báo Giác Ngộ, do tôi thường xuyên đến đọc báo ở phòng đọc
báo chí của Thư viện tỉnh Khánh Hòa.
Có cần phải biết ơn các giáo sĩ ngoại quốc
không?
Tuần báo Giác Ngộ số 1028 ngày 6/12/2019 trang 18 có
bài viết “Tiếng nói & chữ viết” của tác giả Thích Thanh Thắng. Tác giả đã
viết: “Tôi cám ơn chữ Quốc ngữ được hoàn thiện bởi bao nhiêu thế hệ người Việt,
nhưng bảo tôi nhất định phải cảm ơn thực dân Pháp, chấp nhận đặt tên đường cho
Alexandre de Rhodes thì rất buồn cười, bởi thực dân Pháp cưỡng bức thủ tiêu một
cái vỏ ngôn ngữ và thay bằng một cái vỏ khác xa lạ cắt đứt gốc nguồn với tổ
tiên tôi”(1).
Theo quan niệm của người Việt Nam, kết quả của một sự
việc gì cũng phải có căn nguyên, có nguồn gốc, không thể tự dưng mà có được.
Đọc xong đoạn trên, tôi cảm thấy chữ Quốc ngữ mà
chúng ta đang sử dụng hiện nay giống như “từ dưới đàng nẻ chui lên” rồi “được
hoàn thiện bởi bao nhiêu thế hệ người Việt”. Lời văn trên như có vẻ né
tránh sự biết ơn các giáo sĩ ngoại quốc đến truyền giáo ở Việt Nam đã đem chữ
La tinh để sáng chế ra chữ Quốc ngữ mà chúng ta đang sử dụng.
Tiến sĩ Lê Văn Phong, hiện công tác tại Trường Chính
trị tỉnh Thanh Hóa, viết: “Khi đến Việt Nam truyền đạo, các giáo sĩ
không sử dụng chữ Hán, chữ Nôm sẳn có, họ tìm cách sáng chế ra một thứ chữ viết
mới ghi âm tiếng Việt tiện lợi cho công cuộc truyền giáo, mà sau này gọi là chữ
Quốc ngữ”(2)
Ngày 22/12/1995, tại Hà Nội, Trung tâm Khoa học Xã hội
và Nhân văn Quốc gia, Bộ Văn hóa- Thông tin tổ chức Hội thảo khoa học kỷ niệm
335 ngày mất của Alexandre de Rhodes. Hội thảo đã khẳng định: “Sự ra đời
của chữ Quốc ngữ không phải là một sự kiện ngẫu nhiên hay chỉ do ý muốn của một
cá nhân tài năng nào đó, mà là kết quả của một quá trình giao lưu
văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây” và thừa nhận “Alexandre
de Rhoes là một trong những người có công sáng tác ra chữ Quốc ngữ, một nhà hoạt
động văn hóa có cống hiến quý giá cho sự phát triển ngôn ngữ Việt Nam, và cũng
là cho sự phát triển nền văn hóa Việt Nam”.(3)
Trên đây là những phát biểu từ những cơ quan của Đảng
và Nhà nước chứ không phải của Giáo hội Công giáo Việt Nam.
Hai tác giả Hoa Bằng và Tiến Đàm có nhận xét: “Nay
có chữ Quốc ngữ làm lợi khí để xây dựng một nền Quốc văn, ta không thể không thật
tình cảm ơn người đặt ra nó: ông Alexandre de Rhodes” (4)
Trong ngày khánh thành nhà bia Alexandre de Rhodes gần
đền Bà Kiệu, Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ là cụ Nguyễn Văn Tố đã phát biểu:
Chính các giáo sĩ Bồ Đào Nha đến nước ta trước đã cùng với một số người Việt
Nam phần lớn là các thầy giảng đã sáng chế ra cách phiên âm và cách viết tiếng
Việt. Nhưng họ không để lại tên tuổi như Alexandre de Rhodes. Chính Alexandre
de Rhodes là người kế tiếp quá trình sáng chế chữ Quốc ngữ, dùng chữ cái Latin
ghi âm tiếng Việt và đưa ra một hệ thống gần hoàn chỉnh chữ Quốc ngữ như hiện
nay (5)
Chữ Quốc ngữ không hề cắt đứt nguồn gốc với tổ tiên
Tác giả Thích Thanh Thắng nuối tiếc chữ Hán
Nôm: “bởi thực dân Pháp cưỡng bức thủ tiêu một cái vỏ ngôn ngữ và thay
bằng một cái vỏ khác xa lạ cắt đứt nguồn gốc với tổ tiên tôi”.
Xin thưa với tác giả Thích Thanh Thắng, ông cho rằng
chữ Quốc ngữ là “một cái vỏ khác xa lạ cắt đứt với nguồn gốc với tổ tiên tôi”,
thì tại sao khi ông viết bài “Tiếng nói & chữ viết” gởi đăng trên Tuần báo
Giác Ngộ lại sử dụng chữ Quốc ngữ là thứ chữ theo như ông là “xa lạ cắt đứt với
nguồn gốc của tổ tiên”?
Trước đây khi trả lời nhóm Sinh viên Khoa Sử Trường
Đại học sư phạm Huế, “Nhà nghiên cứu” Nguyễn Đắc Xuân đã nói: “Từ chữ
Hán, chúng ta sáng tạo ra chữ Nôm. Trong vốn ngôn ngữ vốn có của ta mang đậm hồn
dân tộc Việt: ‘Thị tại môn huyền náo/ Nguyệt lai môn hạ nhàn’. Còn chữ Quốc ngữ
chỉ ghi lại âm của từ ngữ đó chứ không mang nghĩa lóng như chữ Hán-
Nôm trước đây. Chữ Quốc ngữ có thể nói làm mất cả hồn dân tộc, việc dịch truyện
Kiều ra chữ Quốc ngữ đã làm mất đi một phần, nếu không nói mất đi rất nhiều giá
trị của tác phẩm này”(6).
Nay ông Thích Thanh Thắng lại viết: “Trong
thế kỷ XVII nửa đầu thế kỷ XVIII biết bao nhà nho trí thức tài tử phong lưu của
chúng ta vẫn thăng hoa trong trước tác văn học Nôm mà đỉnh cao là Truyện Kiều của
Nguyễn Du kia mà”(7).
Xin thưa với “Nhà nghiên cứu” Nguyễn Đắc Xuân và ông
Thích Thanh Thắng là nếu dùng chữ Hán- Nôm đúng trường lớp thì không sao, còn nếu
dùng theo kiểu “Thị tại môn huyền náo/ Nguyệt lai môn hạ nhàn”
thì đúng là “làm mất cả hồn dân tộc”, làm ảnh hưởng đến tiếng tăm của
cụ Nguyễn Công Trứ!(8)
Khi dùng chữ Quốc ngữ để viết lại Truyện Kiều, không
hề làm “mất đi rất nhiều giá trị của tác phẩm này”, bởi chữ Nôm hay chữ Quốc ngữ
là dùng để ghi âm (ký âm) tiếng Việt mà thôi. Ví dụ câu: “Trăm năm trong cõi
người ta” khi viết bằng chữ Nôm hoặc chữ Quốc ngữ đều phát âm là “Trăm năm
trong cõi người ta” không có gì khác biệt cả!
Ngay cả Truyện Kiều khi được Nguyễn Du sáng tác bằng
chữ Nôm thì không mấy người đọc được. Để đọc được chữ Nôm đâu phải dễ, do chữ
Nôm “không có mẹo mực gì, ai muốn viết thế nào thì viết, thường thì phải
cao đoán mới đọc được thông”(9). Ngược lại Truyện Kiều chép lại bằng chữ Quốc
ngữ thì trẻ em lên 6, lên 7 đều đọc được. Nhận định về ngôn ngữ học như “Nhà
nghiên cứu” Nguyễn Đắc Xuân rất là non nớt.
Theo suy nghĩ của tôi, những ai hiện nay cho rằng chữ
Quốc ngữ là “một cái vỏ khác xa lạ cắt đứt với nguồn gốc với tổ
tiên” và chữ Nôm “mang đậm hồn dân tộc” hơn chữ Quốc
ngữ chính là những kẻ tự dối với lòng mình!
Hoàng Xuân Việt nhận định về những người có lối suy
nghĩ trên: “Hễ ghét đạo Chúa, ghét Tây thì ghét luôn cả chữ Quốc ngữ”(10)
Các cụ trong phong trào Duy tân đã nhận ra “Chữ
Quốc ngữ là hồn trong nước” chứ không phải chữ Hán hay chữ Nôm! Do
đó “Đầu thế kỷ XX, giới trí thức Việt Nam đã vượt qua tâm lý nghi ngờ,
đố kỵ của người dân mất nước, mà nhận ra cái hay, cái tiện và phép “màu nhiệm”
của chữ Quốc ngữ đối với dân tộc Việt Nam. Họ bắt đầu công cuộc cổ vũ, truyền
bá thứ chữ viết này ra khỏi phạm vi Công giáo đến với quần chúng
nhân dân lao động, chống lại chính sách “ngu dân” của chính quyền cai trị” (11)
Đôi lời với tác giả Thích Thanh Thắng
Tác giả Thích Thanh Thắng không chấp nhận đặt tên đường
Alexandre de Rhodes với lý do: “Chỉ với nội dung khi nói về Tam giáo
trong Phép giảng tám ngày, đã tạo nên những xung đột tôn giáo một
cách gay gắt, mà chúng tôi, những người Phật tử thấy bị tổn thương, khó có thể
chấp nhận được”(12).
Nếu tên tác giả bài viết chỉ ghi “Thanh Thắng” thì
không có vấn đề, đằng này, tên tác giả lại thêm họ “Thích” (họ nhà Phật) nên
tôi mới mạo muội có đôi lời với tác giả: Từ lúc nhỏ, tôi có nghe kể một câu
chuyện về Đức Phật: Một hôm trên đường đi thuyết pháp, Đức Phật bị một nhóm người
đi theo chửi bới, nói những lời tục tĩu xúc phạm đến Đức Phật, nhưng Đức Phật vẫn
nín lặng không nói lại lời nào. Khi về đến tịnh xá, đệ tử mới hỏi lý do tại sao
Đức Phật không phản bác lại. Đức Phật bèn nói: Khi người ta cho anh một cái
bánh mà anh không nhận, thì cái bánh ấy sẽ thuộc về ai? Cũng vậy, khi người ta
chửi bới mình mà mình không phản đối đáp trả thì những lời chửi bới ấy quay về
với kẻ chửi bới.
Nếu Đức Phật hiện tiền mà nghe giáo sĩ Alexandre de
Rhodes mạ lỵ thì Đức Phật sẽ chọn phương pháp “thủ khẩu như bình”. Từ bi- Hỷ xả
là đức tính cao quý của Phật giáo.
Đừng để mang tiếng là “đồ vô ơn”
Ông bà ta luôn dạy con cháu chớ vong ân, bội nghĩa,
chớ trở thành kẻ “ăn cháo đá bát”, kẻ “ăn rồi quẹt mỏ như gà” mà phải luôn là
người “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Ăn một bát cơm / Nhớ người cày ruộng”.
Nguyễn
Văn Nghệ
Phú Lộc Tây, Diên Khánh, Khánh Hòa
-------------------------
Chú
thích:
1; 7; 12- Tuần báo Giác Ngộ số 1028 ngày 6/12/2019,
trang 18
2;3;5; 11- TS. Lê Văn Phong, Lịch sử Hội
Truyền bá Quốc ngữ (1938-1945) (Sách chuyên khảo), Nxb Chính trị Quốc
gia Sự thật, tr 11; 16; 190; 200
4- Hoa Bằng, Tiến Đàm: “Ông Alexandre de Rhodes
1591-1660” Tạp chí Tri Tân, số 2- 1941, trang 21
8- Lời bài thơ Chữ Nhàn (Nguyễn Công Trứ) [xem kỹ
chú thích 1 của bài thơ: https://poem.tkaraoke.com/11221/Chu_Nhan.html
9-
chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/nguyen-van-vinh-voi-tieng-me-de-va-chu-quoc-ngu.html
10- Hoàng Xuân Việt, Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc
ngữ, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội, 2007, trang 338
No comments:
Post a Comment