Ls
Lưu Tường Quang, AO
Sydney,
Australia
09/12/2014
Quan
hệ song hành giữa chính phủ với chính phủ và
đảng với đảng là tàn dư của một thời đã qua.
Trong những năm trước và sau Thế Chiến thứ Hai,
quan hệ giữa đảng với đảng có thể hữu ích,
khi một đảng cùng ý thức hệ chưa nắm được
chính quyền. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, quan hệ
giữa đảng với đảng trong khối cộng sản là keo
sơn để Liên Xô củng cố quyền lãnh đạo, và để
Trung Quốc tìm hậu thuẫn thách đố quyền lãnh
đạo ấy khi có xung đột giữa Bắc Kinh và Moscow.
Kể
từ khi Bức Tường Bá Linh sụp đổ cách đây 25
năm, số nước cộng sản còn tồn tại chỉ như bàn
tay năm ngón. Đấy là chưa kể chế độ cộng sản
hình thức mà trong bản chất chỉ là chế độ độc
tài độc đảng như Trung Quốc tư bản đỏ và Việt
Nam với nền “kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Cả thế giới còn lại, hầu
hết chỉ có quan hệ giữa chính phủ với chính
phủ trong bang giao quốc tế.
Trong
vấn đề Giàn khoan HD 981 hồi giữa năm 2014, Tổng
bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu tiếp xúc nhưng
Tổng bí thư Tập Cận Bình làm ngơ. Các chuyến đi
qua lại của sứ giả Dương Khiết Trì và Lê Hồng
Anh sau đó chỉ nhằm áp đặt và chấp nhận việc
“khôi phục” một quan hệ được coi là bất bình
đẳng. Vậy thì quan hệ song hành giữa hai Đảng
Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam phục vụ quyền
lợi của ai?
Trong
thế giới đa cực ngày nay, một nước nhỏ trung
thành với một nước lớn để “bảo vệ xã hội
chủ nghĩa”, trói buộc mình vào một quan hệ đặc
biệt 16 chữ vàng và tự cô lập về mặt an ninh
quốc phòng, thì chính sách “Ba Không” phục vụ
quyền lợi của ai?
Từ
hai câu hỏi trên, chúng ta có thể đặt vấn đề:
Khi tầm nhìn chiến lược mới đang thành hình trong
khu vực vì yếu tố Trung Quốc, Việt Nam cần thích
nghi thế nào trong thập niên thứ nhì của Thế Kỷ
Châu Á?
Bước
vào ngưỡng cửa năm 2015 với những chỉ dấu đang
phát hiện, chúng ta thử hình dung một thế giới
đa cực mà vùng Châu Á-Ấn Độ-Thái Bình Dương
nói chung và Biển Đông nói riêng, sẽ nhìn thấy sự
thách đố, cạnh tranh và hợp tác giữa Hoa Kỳ và
Trung Quốc trở nên quyết liệt hơn, phức tạp hơn,
và bàn cờ chiến lược có thêm hai tác nhân mới:
Liên Bang Nga trở lại khu vực với hi vọng khôi phục
thời kỳ huy hoàng cũ, và Ấn Độ đẩy mạnh hơn
chính sách Hướng Đông trong nỗ lực mới nhằm
cải thiện tư thế cường quốc toàn vùng, chớ
không chỉ là một cường quốc Ấn Độ Dương.
Về
mặt nhân sự lãnh đạo trong bối cảnh phức tạp
này, chúng ta có một vài ẩn số bất định và
một vài tác nhân không thay đổi.
Vài
Ẩn Số và Tác Nhân Tại Vị
Trừ
phi có những biến đổi bất thường, Ông Tập Cận
Bình sẽ tiếp tục cầm quyền tại Trung Quốc, đại
cường độc tài cộng sản đang trỗi dậy kinh tế
và quân sự, và Ông Vladimir Putin, tại Liên Bang Nga,
một siêu cường độc tài cộng sản trong thời kỳ
chiến tranh lạnh đang được khôi phục vị thế như
là một cường quốc độc tài.
Ông
Tập Cận Bình / Xi Jinping (sinh năm 1953) được bầu
làm Tổng Bí Thư trong Đại hội 18 của Đảng Cộng
sản Trung Quốc hồi tháng 12 năm 2012. Ông trở thành
Chủ tịch Nhà nước hồi tháng 3 năm 2013 và nắm
giữ chức vụ then chốt Chủ tịch Quân ủy Trung ương.
Nhân vật thứ nhì tại Bắc Kinh là Thủ tướng Lý
Khắc Cường / Li keqiang (sinh năm 1955). Tập Cận Bình
và Lý Khắc Cường hầu như sẽ được bầu lại
vào chức vụ đương nhiệm trong Đại hội Đảng thứ
19 dự trù được tổ chức vào năm 2017. Trọn thời
gian 2 nhiệm kỳ, họ sẽ lãnh đạo Trung Quốc trong 10
năm cho đến 2022.
Tổng
thống Vladimir Putin (sinh năm 1952) bắt đầu nhiệm kỳ
6 năm kể từ 2012. Trước đó, ông đã từng làm
tổng thống 2 nhiệm kỳ từ 2000 đến 2008. Do giới
hạn của hiến pháp lúc bấy giờ, ông đã không
thể tiếp tục nhiệm kỳ thứ 3, nên tạm thời làm
thủ tướng, để tái tranh cử tổng thống với
nhiệm kỳ 6 năm, sau khi ông đã thay đổi được hiến
pháp. Nếu phục vụ 2 nhiệm kỳ lần này, Putin sẽ
cai trị Liên Bang Nga cho đến năm 2024.
Liên
minh Mỹ-Úc-Nhật trong bối cảnh mới tại Châu Á-Ấn
Độ-Thái Bình Dương: Tổng thống Obama, Thủ tướng
Tony Abbott và Thủ tướng Shinzo Abe bên lề Hội Nghị
G 20, Brisbane, ngày 15-16.11.2014
Yếu
tố bất định là các cường quốc dân chủ như Hoa
Kỳ, Ấn Độ và Nhật Bản, tuy rằng Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam cũng chia sẻ ẩn số nầy.
Khác
với Trung Quốc, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt
Nam ít khi chuẩn bị công khai người kế nhiệm. Tại
Bắc Kinh, Phó Chủ tịch Tập Cận Bình đã được
coi là người kế nhiệm Chủ tịch kiêm Tổng Bí thư
Hồ Cẩm Đào, lúc ông được bổ nhiệm làm Phó
Chủ tịch Quân ủy Trung ương khoảng 2 năm tiền đại
hội.
Trái
lại ở Việt Nam, chỉ còn 2 năm nữa là Đại hội
Đảng kỳ thứ 12 dự trù được tổ chức vào năm
2016 mà không ai trong nhóm quyền lực Bộ Chính Trị
16 người được coi là kế nhiệm Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng (sinh năm 1944), Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang (sinh năm1949), Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng (sinh năm 1949), và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Sinh Hùng (sinh năm 1946). Đảng có điều lệ qui định
thành viên nghỉ hưu ở tuổi 65, nhưng không phải lúc
nào cũng áp dụng. Hồi năm 2011, ông Nguyễn Phú
Trọng đắc cử Tổng bí thư và Ông Nguyễn Sinh
Hùng, Chủ tịch Quốc hội, lúc đã ngoài tuổi 65.
Không
kể bốn nhân vật chóp bu mà một hoặc hai có thể
được lưu nhiệm hoặc được cử chức vụ khác
trong Bộ Chính Trị, những thành viên sau đây sẽ
ngoài 65 tuổi vào năm 2016: Tô Huy Rứa (1947), Ngô Văn
Dụ (1947), Lê Hồng Anh (1949), Phùng Quang Thanh (1949),
Phạm Quang Nghị (1949) và Lê Thanh Hải (1950). Những
người trẻ hơn gồm: Nguyễn Thiện Nhân (1953), Đinh
Thế Huynh (1953), Nguyễn Thị Kim Ngân (1954), Tòng Thị
Phóng (1954), Nguyễn Xuân Phúc (1954) và Trần Đại
Quang (1956).
Nếu
áp dụng đúng điều lệ về tuổi tác, Bộ Chính
trị sẽ phải có 9 hoặc 10 thành viên mới, nhưng
biết đâu điều bất ngờ lại xảy ra trong hậu
trường chinh trị Việt Nam trong năm 2016. Người ta chú
ý đến một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc
hội ngày 15.11.2014 mà kết quả cho thấy ông Nguyễn
Tấn Dũng đã gia tăng số phiếu đáng kể (320/480
tức là gần 65% tín nhiệm), so với số phiếu tín
nhiệm rất thấp hồi năm trước.
Trong
số các nước lớn dân chủ, Nhật Bản là quốc
gia khó dự đoán hơn cả, vì chính phủ tại Tokyo ít
khi tồn tại hơn 5 năm, ngay cả khi Đảng Tự do Dân
chủ (Liberal Democratic Party - LDP) tiếp tục cầm quyền.
LDP là thế lực chính trị bảo thủ, cầm quyền
gần như liên tục tại Nhật Bản trên 5 thập niên kể
từ khi được thành lập hồi năm 1955. Thủ tướng
Shinzo Abe (sinh năm 1954) là lãnh tụ thiên hữu của
đảng chính trị bảo thủ này từ cuối năm 2012. Ông
đã từng làm thủ tướng trong một thời gian ngắn
hồi năm 2006-07.
Cũng
là một chính trị gia thiên hữu và có tầm nhìn
địa lý chính trị khu vực không khác nhiều với
Ông Shinzo Abe là Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi (sinh
năm 1950) của Đảng BJP (Bharatiya Janata Party). Đảng BJP,
cũng là một thế lực chính trị bảo thủ mà Ông
Modi là lãnh tụ, đã đánh bại Đảng Quốc đại
(Congress Party có khuynh hướng trung-tả) với một đa
số rõ rệt trong cuộc bầu cử quốc hội tháng 5
năm 2014. Nếu Ông Modi phục vụ hai nhiệm kỳ quốc
hội tối đa 10 năm, thì ông sẽ là đối tác trên
chính trường quốc tế với Ông Tập Cận Bình và
Ông Putin cho đến đầu thập niên 2020.
Tại
Mỹ, Tổng thống Barack Obama đang bước vào 2 năm cuối
của nhiệm kỳ thứ nhì. Vì không thể tranh cử vào
năm 2016, nên chẳng mấy chốc Ông Obama sẽ bị coi là
“lame duck” trên chính trường quốc nội và quốc
tế. Kiểm soát được cả Hạ Viện và Thượng
Viện Mỹ sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ hồi
đầu tháng 11 năm 2014, Đảng Cộng hòa sẽ tạo thêm
nhiều khó khăn cho Tổng thống Obama thuộc Đảng Dân
chủ.
Tiến
trình bầu cử tổng thống Mỹ kéo dài khá lâu và
người ta không thể biết được trong năm 2015 ai sẽ
làm ứng cử viên Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ
vào tháng 11 năm 2016 để tranh nhau quyền kế vị Ông
Obama. Nhìn từ động thái của chính phủ Tony Abbott
tại Australia, ứng cử viên có thể là cựu Ngoại
trưởng Hillary Clinton (sinh năm 1947) đại diện Đảng
Dân chủ và Ông Jeb Bush (sinh năm 1953), cựu Thống đốc
Đảng Cộng hòa tại Tiểu Bang Florida. Ông Jeb Bush là
em của cựu Tổng thống George W Bush và con của cựu
Tổng thống George H Bush.
Ông
Jeb Bush chưa trình bày rõ quan điểm về Châu Á-Ấn
Độ-Thái Bình Dương, nhưng Bà Hillary Clinton là chính
trị gia Mỹ có quan tâm nhiều về khu vực này và
ủng hộ mạnh mẽ chiến lược tái định vị (pivot
or rebalance) và Hiệp định Hợp tác xuyên Thái Bình
Dương (Trans Pacific Partnership - TPP) của Tổng Thống
Obama. Nếu được chọn làm ứng cử viên và chiến
thắng 2 nhiệm kỳ tổng thống, một trong hai chính
trị gia này sẽ đương đầu với ông Tập Cận Bình
và ông Putin trong 8 năm cho đến 2024.
Chiến
Lược và Chính sách: Thông Điệp mâu thuẫn của Bắc
Kinh
Nhìn
chung, yếu tố Trung Quốc là điểm nổi bật chi
phối hầu hết các sinh hoạt an ninh quốc phòng và
kinh tế thương mại khu vực trên căn bản song phương
và đa phương, kể cả trong vấn đề tranh chấp tại
Biển Hoa Đông (East China Sea) giữa Tokyo và Bắc Kinh,
và Biển Đông còn được gọi là Biển Hoa Nam (South
China Sea) giữa Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam,
Philippines, Brunei, Malaysia và một phần nào đó,
Indonesia.
Tuy
đây là vấn đề tồn đọng từ cả mấy chục năm
nay, chính sách căn bản của các nước lớn, nhỏ
trực tiếp hoặc gián tiếp có tranh chấp được
xác nhận lại, hoặc được công bố, hay thảo luận
tại ba hội nghị thượng đỉnh quan trọng trong tháng
11 năm 2014: Đó là Diễn đàn Kinh tế Châu Á Thái
Bình Dương (APEC) tại Bắc Kinh, Đông Á tại Nay Pyi
Taw, Miến Điện / Myanmar và G 20 tại Brisbane, Australia.
Tất
cả tác nhân chính yếu đều có mặt tại ba diễn
đàn này, ngoại trừ Thủ tướng Modi không tham dự
APEC, một phần vì Ấn Độ chưa phải là thành
viên. Ông Trương Tấn Sang có mặt tại Hội nghị APEC
(và TPP bên lề Hội nghị APEC) và ông Nguyễn Tấn
Dũng, Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Việt Nam
không phải là thành viên và không được mời tham
dự Hội nghị G 20.
Với
tư cách chủ nhà, ông Tập Cận Bình đã tận dụng
mọi cơ hội trước và trong Hội nghị APEC để cải
thiện vai trò lãnh đạo của Trung Quốc, bằng cách
công bố, phát động sáng kiến mới như Ngân hàng
Đầu tư Hạ tầng Châu Á (AIIB) và khởi động
nghiên cứu Vùng Tự do mậu dịch toàn châu Á Thái
Bình Dương (FTAAP). Nếu thành công, đây có thể là
hai cấu trúc mới hữu ích, nhưng Trung Quốc đâu
phải là công dân thế giới vô vị lợi.
Tất
nhiên Châu Á cần đầu tư để phát triển hạ tầng
cơ sở, nhưng Ngân hàng AIIB tại Thượng Hải sẽ cạnh
tranh với Ngân hàng Thế giới (The World Bank) tại
Washington DC do Mỹ lãnh đạo và Ngân hàng Phát triển
Á châu (ADB) tại Manila do Nhật Bản điều hành. Vùng
tự do mậu dịch FTAAP được 21 nền kinh tế thành
viên APEC ủng hộ nhưng người ta chưa biết rõ cấu
trúc mới này, nếu được thành lập, sẽ vận
hành như thế nào bên cạnh TPP do Mỹ lãnh đạo và
Đối tác Toàn diện Kinh tế Khu vực (Regional
Comprehensive Economic Partnership - RCEP) do chính Trung Quốc
triệu tập tại Hội nghi thượng đỉnh Đông Á ở
Phnom Penh, Cambodia, hồi cuối năm 2012.
Mặt
khác cũng với đặc quyền của nước chủ nhà, ông
Tập Cận Bình loại bỏ ra khỏi nghị trình vấn đề
tranh chấp tại Biển Hoa Đông và Biển Đông. Những
năm trước đây, hai vấn đề này thường được
thảo luận tại Hội nghị APEC, mặc dầu có sự
chống đối của ông Hồ Cẩm Đào, hoặc Thủ tướng
Ôn Gia Bảo.
Quan
sát các động thái của Trung Quốc tại ba hội nghị
thượng đỉnh, người ta không thể không thấy sự
xoay chiều chiến lược khá rõ rệt. Ông Tập Cận
Bình tại APEC và G 20 – và Ông Lý Khắc Cường tại
Miến Điện – đều đóng vai chính khách hoà bình,
cổ xúy một nước Trung Hoa trỗi dậy hoà bình đem
lại phúc lợi cho dân tộc Trung Hoa yêu chuộng hoà
bình, như được thể hiện trong “Giấc Mơ Trung
Quốc” mà ông Tập Cận Bình đã nhiều lần nhắc
nhở. Trong chuyến công du cấp nhà nước tại
Australia sau Hội nghị G 20, ông Tập Cậ́n Bình còn
xác quyết rằng “Trung Quốc sẽ không sử dụng võ
lực để giải quyết tranh chấp”. Tại Hội nghị
Đông Á, Ông Lý Khắc Cường cũng nói rằng Trung
Quốc sẵn sàng ký kết một hiệp ước thân hữu
với mười thành viên Asean.
Thế
nhưng trong thực tế, Bắc Kinh đã đơn phương áp
đặt vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) tại Biển Hoa
Đông hồi tháng 11 năm 2013 và sẵn sàng sử dụng
không quân và hải quân để xác quyết chủ quyền
Đảo Điếu Ngư mà Nhật Bản quản trị với tên gọi
là Đảo Senkaku. Tại Biển Đông, Trung Quốc chưa hề
tuyên bố từ bỏ ý định thiết lập một vùng
nhận dạng phòng không tương tự.
Tại
Biển Đông, Bắc Kinh cũng không hoặc chưa cần sử
dụng võ lực, sau khi đã quân sự hóa đội tàu
hải giám, kiểm ngư và hải cảnh theo phương thức
“chiến hạm vỏ trắng”.
Điều
này đã hiển nhiên khi Bắc Kinh phô trương lực lượng
để uy hiếp Việt Nam và bảo vệ Giàn khoan HD 981
được hạ đặt phi pháp trong vùng đặc quyền kinh
tế (EEZ) Việt Nam từ đầu tháng 5 đến giữa
tháng 7 năm 2014.
Bắc
Kinh còn sử dụng sức mạnh kỹ thuật và nguồn
tài nguyên lớn lao tạo lập nhiều đảo nhân tạo,
chẳng hạn như tại Đá Gạc Ma (Johnson South Reef) , Đá
Chữ Thập (Fiery Cross Reef), Đá Châu Viên (Cuateron Reef),
̣Đá Ga Ven và Đá Lạc (Gaven Reefs) thuộc quần đảo
Trường Sa của Việt Nam. Tại Đảo Phú Lâm (Woody
Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và
tại Đá Gạc Ma và Đá Chữ Thập, Bắc Kinh còn xây
dựng sân bay mà Không quân Trung Quốc có thể sử
dụng trong tương lai. Đây là mối đe dọa quân sự
không những đối với Việt Nam, Philippines mà còn
đối với nền an ninh của Australia và các nước
khác chung quanh Biển Đông.
Một
khái niệm an ninh được manh nha khi ông Tập Cận
Bình bắt đầu nhiệm kỳ lãnh đạo và được ông
diễn đạt nhiều lần và mỗi lần một rõ hơn
bên lề Hội nghị APEC. Đó là “người Á Châu
phải trách nhiệm cho nền an ninh Châu Á”. Thật ra,
đây là mật khẩu cho một sách lược có lẽ đã
được Trung Quốc chuẩn bị từ lâu và thực hiện
khi thời cơ thuận lợi. Chiêu bài này biểu lộ tham
vọng bá quyền của Bắc Kinh. Ông Đặng Tiểu Bình
bắt đầu kế hoạch canh tân Trung Quốc hồi năm 1978
với một cung cách thích hợp khi chưa đủ mạnh là
Trung Quốc phải che đậy “hào quang”. Ngày nay, Trung
Quốc là cường quốc kinh tế thứ nhì thế giới
và có thể qua mặt nước Mỹ trong thập niên tới,
thì Bắc Kinh không cần che đậy hào quang nữa.
Trái
với những phát biểu đậm đà mỹ từ ngoại giao,
mục tiêu tối hậu của Bắc Kinh vẫn là đẩy lùi
ảnh hưởng của Hoa Kỳ ra khỏi vùng Châu Á Thái
Bình Dương, hay ít ra là giảm dần tầm ảnh hưởng
của Mỹ và đồng thời tăng dần ảnh hưởng của
Trung Quốc, bằng cả quyền lực cứng (sức mạnh
quân sự) cũng như quyền lực mềm (sức mạnh kinh
tế, chính trị, ngoại giao).
Thông
điệp của Trung Quốc đầy mâu thuẩn, vì lời nói
và hành động tương phản.
Lựa
chọn nào cho Việt Nam trong bối cảnh mới?
Trong
mấy năm gần đây, yếu tố Trung Quốc đã dẫn
đến chiến lược xoay trục mà Tổng thống Obama
trình bày tại Lưỡng Viện Quốc Hội Australia ngày
17.11.2011 và chính thức công bố tại Washington hồi
đầu tháng 1 năm 2012 để tái cân bằng sự hiện
diện và củng cố ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực.
Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Narendra Modi
tại New Delhi ngày 28.10.2014
Yếu
tố Trung Quốc cũng đang tạo ra ba động thái mới
tại khu vực: (a) hợp tác Nga-Trung và sự hiện diện
gia tăng của hải quân Nga tại Biển Đông; (b) Ấn Độ
tích cực theo đuổi chiến lược Hướng Đông, và
(c) hợp tác an ninh giữa các quốc gia dân chủ khu
vực như Mỹ-Nhật-Úc và Ấn Độ.
(a)
Nhiều năm trước đây, Liên Bang Nga có vẻ chú tâm
nhiều đến việc bán vũ khí cho các nước châu Á
có tranh chấp, như Ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam,
hơn là theo đuổi một chính sách rõ rệt đối
với các cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo, mặc
dầu Moscow cũng có tranh chấp với Tokyo về chủ
quyền quần đảo Kurils mà Moscow đã chiếm giữ sau
Thế chiến thứ Hai.
Nhưng
ngày nay đối với ông Putin - phần nào bị cô lập
tại châu Âu vì vấn đề Ukraine và Cremia- yếu tố
Trung Quốc cũng là lý do để Moscow “xoay trục”
trở lại châu Á, không phải để đương đầu mà
để hợp tác chặt chẽ hơn với Trung Quốc. Ông
Tập Cận Bình đã chọn Moscow làm điểm đến đầu
tiên khi công du nước ngoài, và kể từ đó, hai
lãnh tụ đã gặp nhau hàng chục lần. Trong quan hệ
gần gũi lần này, vai trò có vẻ đảo ngược so
với mấy thập niên trước khi Liên Xô là siêu cường
lãnh đạo toàn thế giới cộng sản.
Tất
nhiên, ngoài hợp tác kinh tế, hai nước còn đẩy
mạnh hợp tác an ninh quốc phòng, như đã được
loan báo sau cuộc hội kiến giữa Thủ tướng Lý
Khắc Cường và Bộ trưởng Quốc Phòng Nga Sergei
Shoigu tại Bắc Kinh hồi giữa tháng 11 năm 2014. Hai
nước chuẩn bị thao diễn hải quân tại Châu Á-Thái
Bình Dương và tại Địa Trung Hải.
Hải
quân Trung Quốc đã biểu dương lực lượng tại
Biển Đông, qua Eo Biển Malacca đến Ấn Độ Dương
và nay có mặt tại “ao nhà” châu Âu là Địa Trung
Hải.
Chiến
hạm Nga đã trở lại Biển Đông thường xuyên hơn,
và đã xuôi nam đến vùng biển quốc tế tiếp
giáp phía bắc Australia, như để phô trương sức
mạnh trong thời gian Hội nghị G 20 tại Brisbane.
Yếu
tố mới này có thể là một thách đố cho chính
sách của Mỹ trong khu vực. Vấn đề là điều này
có lợi gì cho Việt Nam trong vấn đề tranh chấp
với Trung Quốc? Nghi vấn này chưa có giải đáp. Hồi
tháng 3 năm 2013, Bộ trưởng Sergei Shoigu đã thăm
viếng Việt Nam và tuyên bố rằng Moscow coi trọng
Việt Nam trong chính sách đối ngoại. Thế nhưng,
người ta chưa quên là hồi năm 1979, khi Đặng Tiểu
Bình xua quân tấn công vùng biên giới Bắc Việt,
Moscow đã hoàn toàn bất động mặc dầu lúc ấy
Liên Xô và Việt Nam có một hiệp ước hợp tác
an ninh.
(b)
Diễn tiến mới có thể thuận lợi hơn cho Việt
Nam là vai trò của Ấn Độ. Thủ tướng Modi vẫn
duy trì chính sách hợp tác với Trung Quốc như
chính phủ Đảng Quốc Đại tiền nhiệm, nhưng ông
có tầm nhìn rõ rệt hơn về an ninh khu vực và an
ninh của chính Ấn Độ, đặc biệt là mối đe dọa
của Trung Quốc tại vùng biên giới có tranh chấp.
Hồi
giữa tháng 9 năm 2014, trong khi ông Tập Cận Bình công
du thiện chí và hòa bình tại thủ đô New Delhi, vùng
biên giới Ấn-Trung trở nên căng thẳng vì một
toán quân Trung Quốc xâm nhập vào phần lãnh thổ
mà Ấn Độ xác quyết chủ quyền.
Vì
yếu tố Trung Quốc mà Thủ tướng Modi đã dành
những tuần lễ đầu tiên thăm viếng các nước
láng giềng nhỏ ở phía bắc Ấn Độ. Cũng vì
yếu tố Trung Quốc mà chuyến công du bên ngoài Nam
Á đầu tiên của Ông Modi là Nhật Bản. Thủ tướng
Shinzo Abe và Thủ tướng Modi có vẻ thuận ý với
nhau về mặt chiến lược an ninh.
Hồi
năm 2007, Ông Abe đã từng lập luận trên căn bản
“giao thoa giữa hai đại dương” là Nhật Bản góp
phần bảo vệ hòa bình tại Thái Bình Dương, và
Ấn Độ tại Ấn Độ Dương. Hai nước có thể
hợp tác chặt chẽ để kiềm chế bành trướng
của Trung Quốc.
Ngoài
Ông Tập Cận Bình, các lãnh tụ nước ngoài đã
đến Ấn Độ là Thủ tướng Úc Tony Abbott hồi
đầu tháng 9 và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn
Dũng hồi cuối tháng 10 năm 2014. Hai chuyến công du
nầy đều quan trọng cho cả ba nước, có lẽ vì mục
đích không khác nhau nhằm cải thiện bang giao mậu
dịch đầu tư và hợp tác an ninh quốc phòng giữa
Ấn-Việt và Ấn-Úc. Trong chuyến công du đáp lễ
tại Australia sau Hội nghị G 20, Ông Modi và Ông Abbott
đã ký kết thỏa hiệp hợp tác an ninh hàng hải
và cụ thể hóa với một cuộc tập trận hải
quân trong năm 2015.
(c)
Yếu tố thứ ba có tầm quan trọng đặc biệt song
phương và đa phương. Đó là hợp tác Mỹ-Nhật-Úc.
Phương thức này đã từng được Ông Shinzo Abe, Tổng
thống George W Bush và Thủ tướng John Howard nêu lên như
là một sáng kiến tứ cường giữa 4 nước dân
chủ khu vực là Mỹ, Nhật, Úc và Ấn Độ.
Tuy
nhiên, họp tác tứ cường đã trở thành tam cường,
vì lúc bấy giờ Ấn Độ dè dặt với Trung Quốc
và Thủ tướng Úc kế nhiệm Kevin Rudd không muốn
làm phật lòng Bắc Kinh. Bên lề Hội nghị G 20,
Tổng thống Obama, Thủ tướng Shinzo Abe và Thủ tướng
Tony Abbott đã thảo luận tay ba về an ninh khu vực, kể
cả tranh chấp tại Biển Hoa Đông và Biển Đông. Một
nhóm tay ba khác giữa Mỹ-Nhật-Ấn Độ có được
hình thành hay không, chỉ là vấn đề hình thức,
vì trong thực tế, hợp tác thân hữu song phương về
an ninh đang xảy ra giữa Washington, Tokyo, New Delhi và
Canberra.
Kể
từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011,
giới lãnh đạo Hà Nội đã có nỗ lực đa phương
hóa quan hệ với các nước trong thế giới đa cực,
đặc biệt là với Hoa Kỳ. Tuy một vài thành quả
đã đạt được, nhưng tiến trình này hãy còn chậm
chạp mà trở lực vẫn là mối quan hệ gọi là
“đặc biệt” song hành giữa hai chính phủ và
giữa hai đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam.
Chúng
ta chưa biết giới lãnh đạo tại Việt Nam sẽ gồm
những ai sau đại hội đảng năm 2016. Nhưng nếu Việt
Nam chưa được dân chủ hóa và Bộ Chính trị Đảng
Cộng sản tiếp tục cầm quyền, thì ít nhất:
- Việt Nam chỉ duy trì bang giao thân hữu bình thường với Trung Quốc theo đúng Công pháp Quốc tế, tức là giữa chính phủ với chính phủ. Quan hệ song hành giữa đảng với đảng kiềm hãm Việt Nam trong quỹ đạo của Bắc Kinh; và
- Việt Nam từ bỏ chính sách gọi là “Ba Không” nhằm phục vụ quyền lợi chiến lược của Trung Quốc, để có thể theo đuổi chính sách độc lập và tự do trong hợp tác chiến lược toàn diện với các nước.
Tại
Bắc Kinh và đôi khi tại Washington, giới lãnh đạo
Việt Nam đã lải nhải chính sách này, theo đó Việt
Nam “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng
minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ
nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không
dựa vào nước này để chống nước kia”.
Một
trường hợp mà Việt Nam có thể nghiên cứu:
Australia là đồng minh thân cận của Mỹ theo Hiệp
Ước ANZUS, nhưng vẫn thiết lập được đối tác
chiến lược toàn diện với Trung Quốc. Từ
năm 2009, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác toàn
diện với Australia và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
dự trù công du Australia vào đầu năm 2015 thì quan hệ
giữa hai nước có thể được cứu xét nâng cấp.
Tại sao Việt Nam không có những cải cách chính trị
quan trọng để bắt đầu tiến trình hợp tác an
ninh quốc phòng chặt chẽ hơn với hai quốc gia dân
chủ Ấn Độ và Australia - có thể trong một liên
minh Ấn-Úc-Việt?
Thế
giới đang kết hợp vì yếu tố Trung Quốc và đây
là cơ hội tốt cho Việt Nam để bắt đầu tiến
trình thoát khỏi quỹ đạo bá quyền Trung Quốc mà
không nhất thiết phải đối đầu chống Bắc Kinh.
Sydney,
Ngày Quốc Tế Nhân Quyền 2014
L.T.Q
Tác
giả gửi BVN
Được
đăng bởi bauxitevn vào lúc 01:24
No comments:
Post a Comment