Sunday, December 28, 2014

Nghe Lại “Hồ Trường” Trên Đất Mỹ (Phùng Annie Kim)





27/12/2014

“Hồ Trường” là bài thơ nổi tiếng từ đầu thế kỷ 20 của danh sĩ Quảng Nam Nguyễn Bá Trác (1881-1945), viết trên đất Tầu trong thời ông hường ứng phong trào Đông Du. Sau khi về nước, từ 1917, Nguyễn Bá Trác là chủ bút phần Hán văn của tạp chí Nam Phong rồi trở thành quan chức nhà Nguyễn. Năm 1945, ông bị Việt Minh xử bắn tại Qui Nhơn. Thơ “Hồ Trường” của ông mới đây vừa được diễn ngâm tại Quận Cam. Câu chuyện Hồ Trường xưa và nay được ôn lại bởi Phùng Annie Kim, một tác giả gốc nhà giáo dạy văn, từng nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014.

* * *

Cali vào cuối thu. Mưa lất phất, bầu trời âm u, xám xịt. Cali đang hạn hán. Những cơn mưa kéo dài mấy ngày vẫn chưa đủ nước tưới tẩm đất đai cho tiểu bang có khí hậu vùng biển này.Thời tiết lành lạnh, ướt át thích hợp với một ly trà hay cà phê nóng, một quyển sách hay đang đọc dở dang, một bản nhạc êm dịu như "Tiếng chuông chiều thu" và nằm quấn mình trong chăn êm nệm ấm.

Tình cờ xem chương trình quảng cáo Tình ca- Dân ca Việt Nam của cặp nghệ sĩ Nga Mi-Trần Lãng Minh trong đó có tiết mục ngâm thơ bài "Hồ Trường", bài thơ tôi rất thích hồi còn trẻ khiến tôi vùng dậy, thay quần áo ấm, khoác vội chiếc khăn quàng đến vũ trường Bleu.

Phòng trà nhỏ, đầy người. Vé đã bán hết. Tôi nhắn gặp cô em văn nghệ MX. Cô dẫn tôi vào ngồi tạm ghế "súp" ở quầy rượu. Đã lâu lắm rồi từ ngày qua Mỹ, tôi chưa có dịp nghe lại bài thơ này. Chương trình văn nghệ thật là phong phú và đặc sắc, đủ các tiết mục đơn ca, song ca các bản nhạc tiền chiến. Đặc biệt nhất là các tiết mục hát, ngâm những làn điệu truyền thống dân tộc ba miền như Hát Quan Họ, Ca Trù, Chầu Văn, Hát Chèo, Hát Xẩm, Hát Cải Lương, Hát Bài Chòi...

"Hồ Trường" là một trong mười tám tiết mục do Nga Mi và Trần Lãng Minh diễn ngâm bằng thơ.

Hồ Trường, bài thơ dịch từ chữ Hán của tác giả Nguyễn Bá Trác xuất hiện đầu tiên trên tạp chí Nam Phong số bốn mươi mốt, đầu năm một ngàn chín trăm hai mươi. Hồ Trường được tác giả mô tả là lời hát của Nam Phương ca khúc, dựa trong thiên ký sự "Hạn Mạn du ký" viết bằng Hán tự kể lại chuyến đông du kéo dài năm năm của ông.

Là người thanh niên trẻ sang Nhật du học, ông đã từng theo phong trào Đông Du và Duy Tân của hai cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Chiến tranh giữa Nhật Trung, ông bị trục xuất sang Tàu, sống đời lưu vong của người thanh niên xa xứ ôm nhiều hoài bão, tràn đầy nhiệt huyết hướng về quê hương. Trong hoàn cảnh thất cơ lỡ vận, ông mượn bầu rượu (hồ), chung rượu (trường) để bày tỏ nỗi niềm tâm sự. Bài thơ được viết bằng thể văn biền ngẫu, các câu song song đối nhau. Sau này, bản Việt ngữ do chính tác giả dịch, được nhiều người diễn ngâm.

Trên sân khấu nhỏ, tiếng trống thúc giục từng hồi, tiếng đàn tranh bật lên réo rắt, tiếng sáo vi vu trầm bổng, hai khuôn mặt sáng sân khấu, diễn viên Trần Lãng Minh và Nga Mi cất cao giọng ngâm thật trầm hùng bài thơ "Hồ Trường":

"Đại trượng phu/ không hay xẻ gan bẻ cột/ phù cương thường
Hà tất tiêu dao bốn bể/
luân lạc tha hương
Trời Nam/ nghìn dặm thẳm
Non nước/ một màu sương
Chí chưa thành/ danh chưa đạt
Trai trẻ bao lâu /mà đầu bạc
Trăm năm thân thế/
bóng tà dương.
Vỗ gươm mà hát/
nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang
Ai là tri kỷ
Lại đây cùng ta/ cạn một hồ trường..."

Bậc "trượng phu" là những người có chí lớn, bản lãnh và tài ba hơn người. Họ là những người dám "sẻ gan", "bẻ cột" lấy ý từ tích Chu Văn xin vua Hán Thành Đế giết Ân Xương Hầu Trương Vũ. Bị bắt lôi đi, Chu Văn bám tay vào cột. Cột gãy. Sau này Chu Văn được tha tội, vua sai sửa cung điện nhưng vẫn giữ cột bị gãy để biểu dương lời nói ngay thẳng, chí khí hào hùng không sợ chết của bầy tôi trung nghĩa, dám can gián vua chống lại bọn gian thần.

Theo quan điểm Nho giáo thời phong kiến, họ là những "kẻ sĩ" ảnh hưởng nền Nho học, lấy "tam cương, ngũ thường" làm tiêu chuẩn đạo đức. Tam cương là ba giềng mối trong đó có đạo "quân thần", bầy tôi phải trung với vua; đạo "phụ tử", cha phải có bổn phận nuôi con, con phải có hiếu với cha mẹ; đạo "phu thê", vợ chồng phải đối xử tình nghĩa với nhau. "Ngũ thường" là năm điều "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín" trong quan hệ cư xử giữa con người trong xã hội.

Cách đây gần một thế kỷ, tác giả bài thơ và những thanh niên trẻ Việt Nam là những nhà nho có chí lớn, mang tư tưởng cấp tiến và bầu nhiệt huyết tham gia phong trào Đông Du và Duy Tân của hai nhà cách mạng lão thành. Họ tìm con đường xuất dương du học. Họ mang hoài bão thu thập kiến thức văn minh mới lạ ở xứ người sau này trở về phục vụ cho đất nước, dân tộc. Họ "luân lạc tha phương". Có những lúc họ hướng về cố hương phía Nam xa xôi, nào thấy đâu, chỉ là "một màu sương". Nhìn lại bản thân "chí chưa thành, danh chưa đạt", tóc xanh nay đã bạc, mong tìm người tri kỷ để chia sẻ nỗi sầu.

Tay cầm bầu rượu, tay vỗ thanh gươm, chếnh choáng trong hơi men, kẻ trượng phu giọng chất đầy hào khí:

... Hồ trường. Hồ trường
Ta biết rót về đâu
Rót về Đông phương/ nước biển Đông chảy xiết/ sinh cuồng loạn
Rót về Tây phương/ mưa phương Tây từng trận /chứa chan
Rót về Bắc phương/ ngọn Bắc phong vi vút/ đá chảy cát vương
Rót về Nam phương/ trời Nam mù mịt
Có người quá chén
như điên như cuồng.

Bậc trượng phu say mà tỉnh, tỉnh mà say. Chàng rót nỗi sầu trong men rượu. Đã có lúc chàng "quá chén như điên như cuồng". Chàng gửi hết giấc mộng lớn của mình trong hai tiếng "Hồ trường". "Hồ trường". Chàng hướng về bốn phương, nhìn rượu chảy mà ngỡ nước biển Đông chảy xiết, mưa phương Tây chứa chan, gió từ phương Bắc làm đá chảy, cát vương, trời phương Nam mù mịt.

Thời xưa, vị hoàng tử sinh ra trong cung vua hay người con trai sinh ra ngoài đời được viên quan bộ Lễ hoặc cha mẹ lấy cây cung (hồ) bằng gỗ dâu (tang), sáu mũi tên (thỉ) bằng cỏ (bồng) bắn lên sáu phương đông tây, nam, bắc, thượng, hạ, tượng trưng cho chí làm trai tung hoành ngang dọc, xây dựng sự nghiệp lớn. Họ treo cây cung bên trái, cây tên bên phải trước cửa nhà ngụ ý báo rằng gia đình sinh được con trai. Người con trai sau này sẽ thực hiện ý chí "tang bồng hồ thỉ" của đấng nam nhi.

Nào ai tỉnh/ nào ai say
Lòng ta/ ta biết
Chí ta/ ta hay
Nam nhi sự nghiệp như hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây.

Bài thơ khép lại bằng nỗi sầu cô đơn khi tác giả đối diện với chính mình. Chỉ có ta mới hiểu chí khí của ta "Nam nhi sự nghiệp như hồ thỉ". Chỉ có ta mới hiểu được lòng ta "Trời Nam ngàn dặm thẳm. Non nước một màu sương".

*

Bốn mươi năm, nghe lại bài thơ đầy khí phách của kẻ sĩ thời phong kiến sống cách xa tôi gần một thế kỷ, tâm trí nghĩ ngợi, lòng buồn mênh mang.

"Ôn cố tri tân". Người xưa, "sinh bất phùng thời" hoặc bất đắc chí, dùng rượu giải nỗi sầu vong quốc. Tuy có chếnh choáng, ngả nghiêng mà vẫn thấy khí phách hào sảng, khác hẳn cảnh bia rượu thường thấy mô tả trong nước Việt thời nay.

Theo thống kê được phổ biến trên báo chí, Việt Nam ngày nay là nước có số tiêu thụ bia rượu lớn nhất tại Đông Á, tính theo đầu người. Với cán bộ công nhân viên xứ xã hội chủ nghĩa này, bia rượu đã thành đầu câu chuyện để móc ngoặc ăn chia, mua quan bán tước, trộm cắp tài nguyên... Thứ "văn hóa bia rượu" này còn lan cả sang giới trẻ, làm tê liệt mọi hoài bão, lý tưởng. Đủ loại nhức nhối về xã hội như tham nhũng, cướp đất, buôn người, mãi dâm, nô lệ tình dục, xì ke, ma túy... được phủ lấp bằng hơi men.

Hơn một thế hệ đã mai một.

Tiền đồ đất nước đi về đâu?

* * *

Sau gần một thế kỷ nhiều thăng trầm, dâu bể theo vận nước nổi trôi, câu thơ trong bài Hồ Trường ngẫm lại như một lời tiên tri về thời sự:

"...Rót về Đông phương, nước biển Đông chảy xiết sinh cuồng loạn..."

Ngày mười chín tháng một năm một chín bảy bốn, "Biển Đông dậy sóng". Chiến hạm Nhật Tảo HQ10, sau một trận hải chiến ác liệt chống bọn xâm lược đã chìm vào biển Đông. Chiến công của họ đi vào lịch sử. Bốn mươi năm trôi qua, "nước biển Đông" vẫn "chảy xiết" bởi bọn "cuồng loạn" bắn phá tàu bè, bắt bớ, giết hại ngư dân. Ngoài biển, "những chiếc tàu lạ" đang đào hút mỏ dầu trong vùng khoanh có cái tên "lưỡi bò". Biểu tình bị cấm. Những người biểu tình bị bắt. Còn nỗi nhục nào hơn khi Hoàng Sa, Trường Sa rơi vào tay bọn bá quyền.

Lịch sử ghi lại các cuộc khởi nghĩa của "Hùm thiêng Yên Thế" Hoàng Hoa Thám, phong trào Văn Thân của Phan đình Phùng, hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi, anh hùng liệt sĩ Yên Bái Nguyễn Thái Học, Thủ khoa Huân... và còn biết bao nhiêu những trận "mưa phương Tây":

"...Rót về Tây phương, mưa phương Tây từng trận chứa chan..."

Đó là các cuộc khởi nghĩa của những nhà chí sĩ, ái quốc, những bậc anh hùng, anh thư Việt nam vùng lên chống ách đô hộ của thực dân Pháp. Niềm tự hào của dân tộc Việt vẫn còn đây. Truyền thống chống ngoại xâm vẫn còn ghi lại trong những trang sử Việt.

"...Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút đá chảy cát vương..."

Ngược dòng lịch sử, với những cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Bà Triệu...vào những năm bốn mươi, từ thế kỷ thứ mười trở đi, năm chín ba chín, Ngô Quyền đánh quân Nam Hán. "Đại Cồ Việt", cái tên đặt cho đất nước Việt Nam do Đinh Tiên Hoàng, vị hoàng đế đầu tiên mở đầu cho một thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng một chế độ quân chủ sau một ngàn năm nô lệ phương Bắc là một trang sử huy hoàng. Tiếp theo đó, những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm phương Bắc vẫn tiếp tục khiến cho bao phen "đá chảy cát vương" qua nhiều triều đại. Nhà Lê với Lê Hoàn đánh Tống. Nhà Lý với Lý Thường Kiệt đánh Tống. Nhà Trần với Trần Hưng Đạo chống Nguyên, Mông. Lê Lợi với mười năm bình định giặc Minh. Nguyễn Huệ đánh tan quân Thanh.

"Ngọn Bắc phong" dù có cao "vi vút", biết bao phen đá chẩy, cát vương mà rồi cố hương vẫn mù mịt, khiến người tráng sĩ tha hương phải nghiêng bầu rượu mà than rằng:

"...Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt..."

Tiếng than lưu vong của người xưa còn nối dài không biết đến bao giờ.

Biến cố ba mươi tháng tư năm bảy lăm là một bước ngoặt lịch sử bi đát. Ai bỏ nước ra đi mà không nhớ, nghĩ về cố hương?

Sau bốn mươi năm định cư tại các nước trên thế giới, hàng triệu người Việt di tản, vượt biên và định cư xa xứ đâu ngờ rằng đã gần một thế kỷ mà nơi quê xưa, cơn mù mịt vẫn chưa chịu tan.

Những ngày cuối của năm con ngựa sắp trôi qua. Một năm mới sắp đến. Bốn mươi năm nghe lại bài thơ "Hồ Trường" vẫn là âm vang bi tráng, hào sảng ngày xưa nhưng sao tâm cảnh của người nghe thoáng chút ngậm ngùi.

Phùng Annie Kim





No comments: