Khi
luật sư bị đuổi khỏi phiên toà
29/05/2023
https://www.voatiengviet.com/a/khi-luat-su-bi-duoi-khoi-phien-toa/7112780.html
https://gdb.voanews.com/09d40000-0a00-0242-7a7b-08da91972dbb_w1023_r1_s.jpg
Công an Đà Nẵng bắt giam ông Bùi Tuấn Lâm ngày
7/9/2022. Photo Congan
Nhiều
luật sư phải đi ra nước ngoài như Luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Trần Luật… nhiều
luật sư bị tước giấy phép hành nghề như Lê Thị Công Nhân, Lê Công Định, Võ An
Đôn, Lê Quốc Quân (là tôi), Trần Vũ Hải…
Ngày 25/5, luật sư Ngô Anh Tuấn đã bị
buộc phải rời khỏi phòng xử án trong khi đang bào chữa cho bị cáo Bùi
Tuấn Lâm.
Chỉ cách đây một tháng, hai luật sư của cô giáo Lê Thị Dung là Vũ Quang
Ninh và Hoàng Thị Phương cũng đã bị buộc rời khỏi phòng xử án trong một vụ việc
gây tranh cãi.
Trước đó, luật sư Bùi Gia Nên, Nguyễn Duy Bình, Vũ Thị Nga, Trần Vũ Hải….
đều đã từng bị tước quyền bào chữa, buộc phải rời khỏi phòng xử án, thậm chí có
luật sư còn bị áp giải đến trụ sở công an.
Cá nhân tôi vào năm 2003 cũng đã trải qua tình huống đặc biệt. Đó là sau
khi kết thúc bài bào chữa cho thân chủ của mình, tôi đã bị một thẩm phán ở toà
án quận Cầu Giấy ép vào một căn phòng cuối toà án.
Ở đó đại diện cả ba cơ quan là toà án, viện kiểm sát và công an đã ngồi sẵn,
lên tiếng đe doạ khởi tố và bắt tôi ngay tại toà nếu tôi không giao nộp các tài
liệu, băng ghi âm và dụng cụ minh hoạ cho bài bào chữa của mình.
Ở Việt Nam, rất nhiều trường hợp luật sư không thể thực hành quyền bảo vệ
thân chủ của mình vì bị chủ toạ phiên toà “buộc” ra khỏi phòng xử án với nhiều
lý do khác nhau. Vậy căn cứ pháp luật ở đây là gì?
Tất
cả nằm ở ‘thái độ’
Tôn trọng toà là điều mà luật pháp ở bất cứ các quốc gia nào cũng đòi hỏi
và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Việc yêu cầu cảnh sát tư pháp áp giải ra
khỏi toà những người vi phạm cũng là bình thường của toà án trên khắp thế giới.
Khoản 2 Điều 256 Bộ luật tố tụng hình (BLTTHS) sự quy định: “Mọi
người trong phòng xử án phải tôn trọng HĐXX, giữ gìn trật tự và tuân theo sự điều
hành của chủ tọa phiên tòa”.
Khoản 2 Điều 3 Quy chế tổ chức phiên tòa ban hành kèm theo Thông tư số
02/2017/TT-TANDTC của chánh án TAND Tối cao cũng quy định: “Người
vi phạm nội quy phòng xử án thì tùy từng trường hợp có thể bị chủ tọa phiên tòa
buộc rời khỏi phòng xử án…”
Theo khoản 2 Điều 467 BLTTHS thì “Chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết
định buộc người vi phạm rời khỏi phòng xử án hoặc tạm giữ hành chính” nhưng
hiện nay chưa có một hướng dẫn chi tiết là như thế nào là “vi phạm” và chủ toạ
phiên toà “ra quyết định đó” là bằng hình thức nào?, lệnh mồm hay là bằng văn bản?
Khái niệm “Tôn trọng Hội đồng xét xử” cũng là rất
chung chung, đầy cảm tính và chưa có một văn bản pháp luật nào chi tiết hoá thế
nào là “tôn trọng”, thế nào là “khinh thường” quan toà.
Đối với nhiều thẩm phán thì thái độ khúm núm, hoặc “nước mắt” sẽ là một
thái độ tốt. Ngược lại nếu như “ngẩng cao đầu” và “tự tin” thì bị cho là có
thái độ không tốt.
Khi luật sư tin tưởng là thân chủ của mình không có tội thì thường thẳng
thắn và rất quyết liệt trong việc bảo vệ nhưng thái độ đó thường sẽ có một tác
động tiêu cực.
Lẽ ra “quan toà” ngồi ở giữa để “điều phối” và lắng nghe sự tranh tụng giữa
đại diện viện kiểm sát và luật sư rồi sau đó ra phán quyết. Bên buộc tội và gỡ
tội tranh luận càng nhiều, càng sâu thì càng tốt vì như vậy sự thật khách quan
càng dễ dàng sáng tỏ. Đó cũng là yêu cầu của nguyên tắc xét xử tại toà.
Thế nhưng quan toà ở Việt Nam luôn đứng về phía viện
kiểm sát vì họ cùng là “người nhà nước”, người của “đảng”, là “phe ta”.
Lý do phổ biến nhất của việc đuổi luật sư ra khỏi phòng xử án thường là
trong quá trình tranh tụng, đại diện VKS “đuối lý” nên không tranh luận lại và
luật sư thì lại tiếp tục “dí” đòi tranh luận. Quan toà thấy vậy phải sử dụng
quyền chủ toạ để “cứu bồ”.
Trong các vụ án chính trị, thì ba bên (công an, viện
kiểm sát và Toà án) đều đã ngồi lại với nhau, bàn bạc và nhận chỉ thị từ “đảng”
rồi mới đứng ra xét xử. Quá trình gọi là “xét xử” thực chất là thi hành một vở
diễn và phải đảm bảo làm sao cho đúng kịch bản.
Khi luật sự hỏi khó các “diễn viên” sợ vỡ trận thì quan toà áp dụng biện
pháp “bịt miệng” bằng cách liên tục ngắt lời. Nếu luật sư tiếp tục lên tiếng
đòi hỏi phải tranh luận, thì “mời ra khỏi toà” là giải pháp hữu hiệu nhất nhưng
đó cũng là dấu hiệu rõ ràng nhất của sự chưa trưởng thành trong văn hoá tranh tụng.
.
Hậu
quả pháp lý của việc ‘đuổi luật sư’
Khi buộc luật sư rời khỏi phòng xử án chính là lúc quan toà tước đi mất
quyền được bào chữa của bị cáo, là làm mất đi một quyền Hiến định. Điều 31 Hiến
pháp 2013 quy định “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”.
Quyền được bào chữa cũng được quy định tại Điều 322 Bộ luật TTHS: “Bị
cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa
ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên…”.
Điều 26 Bộ luật TTHS cũng sự quy định “người bào chữa và người tham
gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng
cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án…”
Khi đã đuổi luật sư ra rồi thì đương nhiên không còn
có quyền bình đẳng nữa. Quyền bào chữa của bị cáo đã bị tước bỏ và do đó sự thật
khách quan của vụ án khó lòng mà được sáng tỏ.
Theo tôi, việc tuỳ tiện cắt lời, buộc im lặng hoặc đuổi luật sư ra mà vẫn
cứ tiến hành xét xử là vi phạm tố tụng. Lẽ ra khi thấy có dấu hiệu vi phạm thật
sự thì chủ toạ phiên toà phải nhắc nhở, sau đó ra quyết định xử lý vi phạm và dừng
phiên toà cho đến khi bị cáo có được luật sư khác tham gia.
Chúng ta phải thừa nhận rằng trong quá trình phát triển thì luật sư và
các quan toà cũng “đang phát triển” nên trình độ chưa đồng đều. Các thẩm phán
luôn luôn có những hành xử khác nhau, ở những nơi khác nhau và tâm lý cũng rất
thất thường.
Cho nên Hội đồng thẩm phán Toà Án tối cao cần phải có một hướng dẫn để
các chủ toạ không thể tuỳ tiện “đuổi” luật sư ra khỏi phòng xét xử. Hiện nay Bộ
luật hình sự và Tố tụng hình sự đã có hiệu lực hơn bảy năm, thì một văn bản hướng
dẫn như vậy từ Hội đồng thẩm phán toà án tối cao là rất cần thiết.
Khi bị đuổi khỏi toà, nhiều luật sư đã từng kiến nghị lên Liên Đoàn luật
sư để nhờ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình nhưng hầu hết đều rơi vào
quên lãng. Điều này cho thấy vai trò của Liên Đoàn luật sư cũng rất hình thức,
nó là cơ quan đại diện được lập lên nhưng thực sự không hữu hiệu như một số luật
sư đoàn ở các nước.
Cảm
nghĩ về nghề luật sư
Do suốt một thời gian dài đất nước Việt Nam chỉ quan
tâm đến “chuyên chế vô sản” mà không quan tâm đến “pháp luật” nên vai trò của
luật sư trong xã hội là rất mờ nhạt.
Khi tiến hành đổi mới và hội nhập quốc tế, đất nước bắt đầu có các bộ luật,
thì luật sư như một chỗ chứa đựng rất nhiều “loại người”, trong đó rất nhiều
người không có trình độ chuyên nghiệp. Rất nhiều luật sư đời đầu là công an, thẩm
phán, kiểm sát viên “có vấn đề”, “bị tuột xích” hoặc về hưu liền “hàm thụ” và
trở thành luật sư, với năng lực chuyên môn vô cùng yếu kém.
Nhiều luật sư cũng ghi danh lấy tiếng cho “oai” mà không muốn hoặc không
thể tiến hành một hoạt động nghề nghiệp nào. Xã hội thì vẫn nhìn nhận nghề luật
sư như một “nhịp cầu nối những bờ vui”, là làm trung gian môi giới hối lộ giữa
thân chủ và quan toà.
Tuy vậy, vẫn có những luật sư chấp nhận dấn thân, bảo vệ thân chủ trong
những vụ việc khó và có dấu hiệu oan sai, đặc biệt là các vụ án chính trị. Họ bị
theo dõi, đánh đập và còn phải chịu đựng những áp lực vô cùng nặng nề.
Nhiều luật sư phải đi ra nước ngoài như Luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Trần
Luật… nhiều luật sư bị tước giấy phép hành nghề như Lê Thị Công Nhân, Lê Công Định,
Võ An Đôn, Lê Quốc Quân (là tôi), Trần Vũ Hải…
Hiện nay luật sư Đặng Đình Mạnh và một số luật sư khác trong vụ “tịnh thất
Bồng Lai” vẫn đang bị triệu tập, theo
dõi và có nguy cơ bị bắt chỉ vì họ mong muốn đi đến tận cùng của sự thật
khách quan để kiếm tìm công lý.
Khi nghĩ về nền tư pháp tôi thường nghĩ về bức ảnh
linh mục Nguyễn Văn Lý bị bịt mồm ngay tại phiên toà 17 năm trước. Ngày nay
thay vì trực tiếp bịt mồm bị cáo, cơ quan tố tụng tiếp tục “đuổi cổ” luật sư ra
khỏi toà án, tước đi quyền được bào chữa chính đáng của thân chủ họ.
Đây
là một trong những dấu hiệu cho thấy nền tư pháp Việt Nam không hề tiến bộ
trong những năm qua và là thách thức lớn cho những ai đang mong muốn sự phát
triển của nó, đặc biệt là các luật sư.
No comments:
Post a Comment