31 Tháng Bảy, 2019
Vừa qua, trên FB có chuyện “lùm xùm” liên quan đến
Giải Thơ Văn Việt. Bỏ qua một bên những thái độ thiếu kìm chế, thậm chí mạt
sát, quy chụp, nổi lên một vấn đề tưởng chừng như xưa cũ: Văn chương để làm
gì?
Cuộc thảo luận “Văn chương để làm gì?”, mở đầu bằng
bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc, là một diễn đàn để nói cho nhau nghe về vấn
đề quan trọng này.
Văn Việt chờ đợi sự hưởng ứng của bạn đọc và hoan
nghênh mọi ý kiến xây dựng.
Văn
Việt
|
Tính đến nay, Ban Vận dộng thành lập Văn đoàn Độc lập
Việt Nam ra đời đã trọn 5 năm. Một dịp như thế này thường là để cùng nhau nhìn
lại chặng đường đã qua, và suy nghĩ về những bước đi tới. Vả lại gần đây có một
chuyện hơi lùm xùm, nhỏ thôi, đáng ra trong một nhóm làm văn học hay nghệ thuật
tự nguyện đến và chơi với nhau vì cùng chí hướng, thì không nên có. Vậy mà nó
đã có, và người xướng ra lại muốn làm ồn ào, cho nên nhân dây cũng cần nói qua
đôi chút.
Tôi nghĩ tôi nên xin phép các bạn kể lại một chuyện
cũ để ít ra có thể hiểu ý tưởng về việc cần có một hay nhiều tổ chức văn học và
nghệ thuật độc lập đã manh nha từ bao giờ, như thế nào.
Ấy là vào đầu những năm 1980, sau khi có chuyện lùng
nhùng về vụ Đề dẫn do tôi trình bày ở Hội nghị đảng viên tháng 3 năm 1979 và bị
ông Tố Hữu đánh cho một trận tơi bời. Ông Lê Đức Thọ, bấy giờ là Ủy viên Bộ
Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng có hôm gọi tôi đến gặp ở trụ
sở Ban Bí thư trên đường Nguyễn Cảnh Chân, Hà Nội. Trong cuộc gặp đó, sau khi
nói chuyện về vụ Đề dẫn, thấy ông Thọ cũng tỏ ý muốn hiểu công việc của Hội Nhà
văn, tôi nhân thể nói với ông ý kiến của tôi về các tổ chức văn học nghệ thuật ở
ta nói chúng nên như thế nào. Tôi nói rằng trong thời kỳ chiến tranh, cách tổ
chức các hội tập trung thống nhất dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng thôi thì
cũng có thể coi là đúng và cần thiết. Mỗi ngành, mỗi hội bấy giờ như hệt một
binh chủng đánh giặc, cho mục tiêu tất cả để chiến thắng. Chiến tranh là tình
thế phi thường, tức không bình thường. Bây giờ khác rồi, đã trở lại cuộc sống
bình thường trong hòa bình. Đời sống xã hội và các tổ chức xã hội dẫu muốn dẫu
không cũng cần trở lại bình thường. Nhìn lại từ xưa đến nay, hầu như ở bất cứ
đâu, các tổ chức văn học nghệ thuật thường hình thành và hoạt động như sau: Từng
nhóm nghệ sĩ tập hợp lại, hoặc do cùng xu hướng nghệ thuật, hoặc cùng điều kiện
thuận lợi về hoạt động nghệ thuật, hoặc đơn giản hơn do ở gần nhau hay thích
chơi với nhau, dễ giúp đỡ nhau… Trong thời đại thông tin hiện đại bây giờ họ thậm
chí có thể kết nối xuyên biên giới… Những nhóm như vậy tự sống, hoặc ngày xưa,
và cả ngày nay, có thể có những Mạnh Thường quân hộ trợ. Nhà nước khỏi lo.
Một đời sống văn học nghệ thuật như vậy sẽ phong
phú, đa dạng, mở đường rộng rãi cho sáng tạo, có thể nảy sinh nhiều trường
phái, là điều kiện lý tưởng của một xã hội, một đất tự coi mình là văn hóa, văn
hiến, văn minh… Lần ấy tôi đã mạnh dạn nói với ông Lê Đức Thọ: Tôi đề nghị có
thể bỏ Hội Nhà văn của nhà nước đi, để cho các văn nghệ sĩ tự lập các nhóm, xã
hội và đời sống tinh thần, nghệ thuật sẽ phong phú và vui hơn nhiều. Còn như nếu
Đảng vẫn muốn giữ vai trò lãnh đạo thì phải nên chuẩn bị cách lãnh đạo trong một
tình thế đa dạng như vậy.
Cũng lạ, hôm ấy không thấy ông Thọ không phản ứng
gì. Ông chỉ bảo: “Cũng là ý kiến đáng chú ý. Để xem…”.
Tất nhiên, rồi không thấy ông “xem” gì cả…
Tôi xin lỗi nhắc lại một chuyện cũ đã gần nửa thế kỷ
để muốn nói rằng cái tình thế một hội nhà văn duy nhất độc quyền văn học trong
cả nước, bắt chước theo kiểu những ông Stalin, Jdanov và cả ông Gorki xu thời
bên Nga, nhốt hết hằng chục hằng trăm nhóm văn học phong phú và rực rỡ của nước
Nga vĩ đại trước cách mạng vào một cái rọ chung chật chội là cái Hội Nhà văn
Liên Xô lục đục và nghèo nàn, là một cuộc bắt chước thảm hại. Và từ lâu, nhiều
đầu óc sáng láng trong văn học ta đã trằn trọc muốn phá tung ra.
Việc Ban Vận động thành lập Văn đoàn Độc lập ra đời
là ở trong cái quá trình, cái ý muốn và ý chí ấp ủ lâu dài đó của bao người cầm
bút Việt Nam. Chỉ là đến một lúc, do những tình thế thích hợp nào đó, có ai đó
nhắc đến. Và nhiều người nhận thấy đã đến đúng lúc.
Nhắc lại dông dài như trên còn là để khẳng định rằng,
cái “văn đoàn” (và như trong Tuyên bố ban đầu của nó, nó mong còn có thể có những
“văn đoàn” cũng “độc lập” khác nữa sẽ liên tiếp xuất hiện), nó ra đời để mong
góp phần cho một nền văn học rộng mở hơn, phong phú hơn, tự do hơn. Vừa cố gắng
củng cố lại những nền móng toàn diện và vững chắc đã được xây dựng bởi bao nỗ lực
của tất cả những người đi trước, bất kỳ lúc nào và ở đâu (chính vì vậy mà trang
Văn Việt đã cố gắng làm và đã làm được một công việc công phu và to lớn: khôi
phục lại diện mạo quý báu của văn học Miền Nam 1954-1975 và cả văn học Việt hải
ngoại sau 1975, chắc chắn là một phần không thế thiếu trong lịch sử văn học Việt
thế kỷ 20 và 21). Và quan trọng hơn, như trong Tuyên bố ban đầu có tính cách tôn
chỉ của chúng ta: góp phần xây dựng một nền văn học tự do và nhân bản. Tự do là
mở rộng cho tất cả các xu hướng nghệ thuật, cho mọi tìm tòi và đổi mới, thậm
chí như một người lãnh đạo văn nghệ theo tôi là giỏi nhất ở nước ta từng có được
là anh Trần Độ đã nói: Cần có trường phái mới, cho đỉnh cao mới xuất hiện.
Không có cái mới, cái lạ xuất hiện, thì văn học sẽ chết dí tại chỗ.
Cái mới bao giờ cũng khác lạ, nó thường gây sốc. Nó
chướng. Bao giờ cũng thiểu số. Nó thường bị dè bỉu, thậm chí bị chửi bới, đe dọa.
Đó là chưa nói đến kỷ luật, cách chức, tước bằng, như cái vụ Nhã Thuyên nổi tiếng
một cách nhục nhã cho văn hóa giáo dục Việt Nam mới mấy năm trước. Chứ còn như
nó đã đa số ngay từ đầu, nó lễ phép trình làng, nó dễ nghe, quen tai, dễ hiểu,
hiểu được ngay… thì, cho tôi nói thật nhé, chắc chắn nó đã cũ rích rồi. Nhân
đây tôi cũng xin nói luôn: dễ hiểu không phải là một tiêu chí của văn học (hay
nghệ thuật) nhất là văn học nghệ thuật hay. Picasso có dễ hiểu không? Và
Dostoievski?…
Trong khi phê phán thơ Vũ Lập Nhật,
anh Lê Phú Khải có dẫn một câu tiếng Pháp để nói rằng nên viết cho dễ (hiểu). Rien
n’est plus difficile que d’écrire facile, tôi xin lỗi, tôi e anh dịch nhầm. Rien
n’est plus difficile que d’écrire facile phải dịch đúng ra là “Không
gì khó bằng viết dễ”, chứ không phải “Không gì khó bằng viết (cho) dễ hiểu”.
Hai câu chỉ khác nhau một từ nhưng ý thì khác nhau xa đấy! Anh cũng dẫn
Baudelaire để nói rằng đấy là một nhà thơ bế tắc, suy đồi, sa đọa, chắc để nói
bọn thơ trẻ nay ở ta cũng bắt chước suy đồi sa đọa như thế… Anh đơn giản và liều
quá rồi đấy, anh ạ. Cho đến tận bây giờ Baudelaire vẫn luôn được coi là một nhà
thơ lớn, một thi hào của nước Pháp và có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều thế hệ
văn học không chỉ ở Pháp. Anh cũng nhắc đến Anatole France và viết: “Không phải
ngẫu nhiên mà người Pháp lại yêu quí Anatole France (1844 – 1924). Vì người
Pháp cho rằng: Cái gì không trong sáng không phải là tiếng Pháp. [Xin anh Khải cho
biết ai nói dại thế nhỉ. Anh toàn dẫn lời ai đó mà không hề có nguồn, rất nguy
hiểm] Anatole France chính là tiếng Pháp.” (Lại ai nói dại nữa thế?). Anh lại
nói liều nữa rồi, anh ơi! Để cho vui, tôi xin nhắc một mẩu giai thoại: Anatole
France từng được giải Nobel văn học và được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp. Viện này
có lệ ai chết thì mới bầu người khác thay. Khi Anatole France qua đời, người được
bầu thay ông là Paul Valéry. Theo lệ Paul Valéry phải đọc một diễn từ ca ngợi
người vừa ra đi. Bài diễn từ của Paul Valéry về sau rất nổi tiếng, bởi suốt bài
ông đã cực kỳ khôn khéo đến mức kể lể rất trang trọng về những vĩ nhân từng là
viện sĩ Hàn lâm đã ra đi, nhưng từ đầu đến cuối không hề nhắc đến tên Anatole
France một lần nào. Nghĩa là, rất rõ, Paul Valéry không coi trọng gì lắm tài
năng của Anatole France. Hồi nhỏ tôi có đi học trường Tây một ít, và tôi biết
những lối văn chương “trong sáng” đến mức “những gì không trong sáng không phải
là tiếng Pháp” của những Anatole France, Alphonse Daudet… thường là thứ văn
thánh thót gần với thơ chỉ được dạy ở cấp tiểu học để học trò trẻ con dễ thuộc
lòng. Hãy thử đọc Camus, Gide, Sartre, Simonne de Beauvoir, Céline, Houllebecq…
mà xem, có hề dễ đâu. Chưa nói gì đến những Rabelais, những Sade, và Proust… Viết
một thứ văn cố cho trong sáng, sạch sẽ, thánh thót thì cũng được thôi, nhưng chắc
chắn không phải là tiêu chí của văn học, bất cứ là văn học nào, Tây cũng như
ta. Những tiểu thuyết đọc đến vỡ đầu của Joyce, của Faulkner, cả của Salman
Rushdie sau này nữa, vẫn được coi là những kiệt tác hàng đầu của thể giới dù có
ai bảo các ông ấy… điên và độc mồm chửi rủa!
Còn có một điều nữa cũng cần phải nói: Trong các
ngành nghệ thuật, riêng văn học có một thiệt thòi lớn. Hội họa sử dụng màu sắc
và đường nét, âm nhạc sử dụng âm thanh và nhịp điệu, kiến trúc sử dụng các chất
liệu… Còn văn học thì chỉ có một thứ để sử dụng, đó là ngôn ngữ, là lời ăn tiếng
nói người ta vẫn nói năng bình thường hằng ngày. Trong khi, ai biết đôi chút về
văn học đều hiểu ngôn ngữ dùng trong văn chương vừa là tiếng nói đó, ngôn ngữ
đó, lại vừa là không phải nó nữa. Đó đã là, chủ yếu là những ký hiệu thẩm mỹ mà
nhà văn sử dụng như họa sĩ dùng sắc màu, nghệ sĩ khiêu vũ dùng động tác múa
toàn thân thể của họ… Ở đây các từ có thể mang nghĩa hoàn toàn khác, chúng có
thể vang lên hoàn toàn khác, tác động vào người đọc gây hiệu quả kỳ lạ mà chỉ
có nhà văn hay nhà thơ mới tạo ra được, hơn nữa chỉ một lần. Nó đến với người đọc
như một hệ thống mã thẩm mỹ để tạo nên ở họ, đưa họ vào một thế giới độc đáo chỉ
có một trong đó tồn tại một khí quyển khác, một bầu trời khác, với những quy luật
khác, thậm chí cả những hệ đạo đức khác, chưa từng có… Vì vậy hiểu văn học một
cách trần trụi, thô kệch là hiểu nhầm, nhầm to, rất có hại, trước hết cho chính
người đọc thô kệch.
Tôi yêu thơ Phapxa Chan , tôi
yêu thơ Vũ Nhật Lập vì đọc họ tôi gặp những thế giới tôi chưa từng biết, họ làm
giàu cho tôi bằng những trằn trọc dường như tôi từng mường tượng mà chưa định
hình được cho mình.
Và nhân đây cũng xin nói luôn, trong các giải thưởng
của mình hằng năm, Văn Việt luôn cố đi tìm những tác giả như thế, những người
nói những gì chưa ai từng nói, theo cách chưa ai từng nói. Họ tìm, họ thử nghiệm.
Như bao thế hệ người cầm bút đi trước chúng ta từng dũng cảm thử nghiệm. Nếu
không, nếu cứ một mực thánh thót, dễ hiểu sáo mòn, thì thử hỏi làm sao chúng ta
có được Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương, cả Trần Dần và Lê Đạt…?
Riêng tôi, tôi thường tự thấy mình kém hiểu thơ. Những
khi như vậy trước hết tôi tự nhủ đúng là mình dốt thật. Và tôi đi tìm những
chuyên gia giỏi, như các anh Nguyễn Đức Tùng, Vũ Thành Sơn, Inrasara, chị Ý
Nhi, anh Đặng Tiến… và lắng nghe họ giảng. Chứ không vội chửi bừa.
Chắc trên đời chẳng có gì dân chủ bằng văn chương. Đọc
hay không thèm đọc, thích hay không, chả ai cấm hay bắt buộc được ai. Và ai
cũng có quyền bày tỏ ý kiến của mình, thậm chí tranh luận quyết liệt. Chỉ có điều
người tự coi là trưởng thành và có văn hóa thì biết ứng xử có văn hóa và văn
minh. Chưa hiểu, không hiểu, thì hỏi, thì học, giỏi nữa thì viết bài tranh luận.
Nhất thiết đừng coi thiên hạ, mà thường là những người suốt đời lăn lộn với
thơ, toàn là một lũ dốt và điên.
Cuối cùng còn một điều nữa chắc không thể không nói.
Vừa rồi có anh bạn thân do quý mến tìm đến thăm anh chị em Văn đoàn. Rất tiếc
tôi không có mặt được hôm ấy. Nghe nói trong khi trò chuyện thân tình, anh ấy
có bảo văn học cũng chỉ là công cụ, chắc có ý nên là công cụ của cuộc đấu tranh
xã hội đang bức bách bây giờ. Tôi cám ơn anh, nhưng cũng xin phép cho tôi nói
rõ quan niệm văn học là công cụ, dù là công cụ của ai, cho cái gì, là hoàn toàn
không đúng, và còn nguy hiểm nữa. Cách đây mấy năm, trong khi trả lời phỏng vấn
của báo Người Việt, tôi đã nói rõ: “Chúng tôi, những nhà văn, chúng tôi không
là công cụ của ai hết. Văn học không là công cụ của ai hết.” Quan niệm văn học
công cụ tất yếu dẫn chúng ta trở lại một thảm họa mà mấy chục năm trước Nguyễn
Minh Châu đã đau đớn và thống thiết kêu lớn: “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn
văn học minh họa!”. Làm công cụ, tức minh họa, không thể khác. Trước đây, anh dại
dột cắm cúi minh họa cho các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Bây giờ,
cũng y như thế, anh lại cắm cúi minh họa cho những chủ trương, hành động chống
lại những điều trước đây anh đã cắm đầu cắm cổ ca ngợi, cổ vũ. Chẳng lẽ văn học
chỉ có thể hết làm tay sai viết thuê cho “phe” này lại đến làm tay phát ngôn tận
tụy cho “phái” khác sao. Tôi nghĩ dù đôi khi làm ra vẻ oai phong, nhưng thường
tự trong thâm tâm sâu xa mỗi người cầm bút đều luôn có mặc cảm thầm kín: mình
có thật sự đủ tài năng cho sứ mệnh quá to lớn mà mình đã liều mình tự nguyện
gánh vác không. Bởi vì quả thật văn học mang sứ mệnh rất to lớn. Với tư cách
công dân, lâu nay các thành viên Văn đoàn chưa bao giờ vắng mặt trong các cuộc
đấu tranh xã hội cần thiết. Song đồng thời họ biết sứ mệnh to lớn và sâu xa của
họ là điều gì đó lâu dài và căn bản hơn nhiều: góp phần cho sự giàu có, trong
lành, thanh sạch, cho sự phục hồi nhân cách Việt đã bị bao nhiêu thứ lý thuyết
(và cả thực hành) nhiễu loạn tàn phá bao nhiêu năm nay. Đấy chính là điều anh bạn
từ xa đến thăm anh chị em chúng tôi vừa rồi đã gọi là chức năng “khai dân trí”.
Chúng tôi đã ra sức vận động cho sự ra đời của một tổ
chức văn học theo tôn chỉ Tự do và Nhân bản, cũng chính là vì mục đích tha thiết
đó: Khai dân trí, bằng con đường của mình, Văn học, góp phần tích cực nhất cho
sự hình thành một nhân cách Việt xứng đáng và đủ sức đứng cùng nhân loại năm
châu.
*
*
01/08/2019
1. Thành phần chữ nghĩa và văn chương
Không phải hễ có học, nhiều chữ nghĩa, hay mang danh
trí thức là rành văn chương. Lỗi ở thiết kế chương trình văn học ở Việt Nam đã
cho ra đời không ít trí thức mù-chữ-về-văn-chương” (chữ của Nguyễn Hưng Quốc).
Có sinh linh không mù, còn nhà thơ hay nhà phê bình có hạng nữa, do thiếu kiến
thức về hệ mĩ học văn chương mới, đã không thể cảm nhận được sáng tác mới kia,
là điều không lạ. Cũng có người hiểu cái mới, do gu thẩm mĩ khác nhau, nên
không thể chấp nhận loại thơ khác mình.
Trích: Song thoại với cái Mới (NXB
Hội Nhà văn, 2006):
“Tại sao các thế hệ thơ [thuộc hệ mĩ học khác nhau] không thể chấp nhận
nhau, dù họ đều là trí thức hàng đầu ở thời đại họ, nhà thơ hàng đầu nữa? Huỳnh
Thúc Kháng ứng xử với Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu và Tố Hữu với thơ Nguyễn Đình
Thi. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo kêu thơ Nguyễn Quang Thiều là “thứ thơ tây giả cầy”,
thơ dịch, mà là dịch tồi! Đinh Linh là nhà thơ Việt hải ngoại sáng giá, thế mà
không ít nhà thơ cho chữ nghĩa anh không phải là thơ. Cứ thế, tiếp tục chương
trình…”
Tại sao thơ phải chịu thảm trạng ấy?
2. Tính khó hiểu của thơ
Chấp nhận “tính khó hiểu” là yếu tố quan trọng của
tinh thần sáng tạo. Lĩnh vực nào thì còn mong có thể chấp nhận được, chứ thơ
thì… cực khó!
Một học sinh lớp 9 không hiểu toán lớp 10, hắn chấp
nhận mình dốt mà không chút xấu hổ. Một tiến sĩ xem tranh trừu tượng không hiểu,
anh bước qua không phát ngôn nửa lời, sợ mọi người chê mình dốt. Còn một giáo
sư đại học, thậm chí một anh công nhân mới qua tiểu học đọc thơ không hiểu, dứt
khoát ấy cho do nhà thơ… bất tài.
Bởi thơ sử dụng kí hiệu ngôn ngữ, mà ngôn ngữ thì ta
cũng chứa đầy bụng như ải như ai. Đọc thơ không hiểu, hứng lên là nhào vô bàn,
chả ngán.
3. Về Ban giám khảo
Giám khảo thơ là thứ nhiêu khê nhất trần đời.
Tôi nằm trong Ban giám khảo Giải Sách Hay [mục sách
nghiên cứu] của Viện IRED gồm 5 người. Chúng tôi không tham khảo ý kiến nhau,
nhưng thường nhất trí khá cao. Ngược lại, ở món thơ thì khác. Phó Chủ tịch Hội
đồng Thơ của Hội Nhà văn gồm 9 người. Đề cử tác phẩm lên Ban Chấp hành xét giải,
có 3 trường hợp xảy ra:
Tôi đề cử tập thơ này, nếu đa số bỏ phiếu cho cuốn
khác, tôi chấp nhận cuộc chơi: Chiều theo đa số. Có bạn thơ nằm trong Hội đồng,
lại mang tác phẩm mình ra thi thố; tôi phản đối thái độ này, còn khi tác phẩm
kia được đa số, tôi vẫn chịu. Có tập thơ chỉ được 2 phiếu ở Hội đồng, trong khi
2 tập khác được 7-8 phiếu, vậy mà Ban Chấp hành cho tác phẩm bị loại kia được
giải duy nhất của năm, tôi phản đối quyết liệt, trên báo trong nước lẫn RFA. Bởi
đó là thái độ thiếu tôn trọng Hội đồng chuyên môn do chính BCH đề cử.
4. Vụ giải Thơ của Văn Việt
Văn chương vô bằng cớ, ở đó nẩy ra nhiều khác biệt,
là chuyện miễn bàn. Chính điều đó biểu hiện sự phong của tâm hồn con người, và
ngược lại, làm cho đời sống tinh thần nhân loại giàu sang lên.
Nếu Hội Nhà văn Việt Nam luôn nhất quán ở một hệ mĩ
học [hay vài hệ mĩ học tương cận], Văn đoàn Độc lập muốn làm khác: Tìm kiếm và
tôn trọng sự khác biệt. Hội đồng giải thưởng mỗi vụ mỗi thay phiên, cũng là
cách để tạo ra sự khác biệt. Đó là cách làm đáng khích lệ.
Thế rồi cái MỚI, cái KHÁC LẠ kia va chạm với ba
thành phần chữ nghĩa trên. Và có chuyện. Va chạm, hay phản đối – được lắm! Chẳng
được tí nào là ở thái độ. Xin nhắc lại: Đam mê cái khác lạ, chấp nhận “tính khó
hiểu” là yếu tố quan trọng của sáng tạo.
Sáng tạo thử nghiệm có thể thành công nhiều hay ít,
thậm chí có thể thất bại – không vấn đề! Dám, đã là một dũng cảm. Trường phái
Dada trong hội họa, trào lưu Tiểu thuyết mới trong văn xuôi, hay trào lưu siêu
thực trong thơ chưa cho ra lò được tác phẩm vĩ đại nào để đời, mà đã chết. Bù lại,
chính chúng đã làm nên cuộc cách mạng trong văn học nghệ thuật, để lại dấu ấn lớn
ảnh hưởng đến hôm nay.
5. Thái độ với văn chương chữ nghĩa
Không hiểu, tạm chấp nhận cái đã, tìm hiểu sau – mới
là dân biết điều. Kinh nghiệm từ từ bộ óc vĩ đại nhất thế kỉ XX: Einstein cũng
là bài học đáng ôn tập. Ông không chấp nhận, cạnh đó còn nhạo báng thuyết lượng
tử, cuối cùng là…
Không hiểu, phản bác quyết liệt – cũng tốt nốt. Để
thiên hạ có cơ hội nói lại, còn sự nói lại đó có đả thông được hay không là
chuyện khác. Chứ mới ngó thấy cái khác mình, không cần tìm hiểu mà đã xúc phạm,
mạt sát nhau cho dứt tình anh chị em, thì hỏng to rồi.
Cái hỏng to kia, tiếc là diễn ra với các trí thức
tôi rất yêu quý!
Chakleng, 30-7-2019
No comments:
Post a Comment