Thụy My
– RFI
Đăng ngày 27-07-2019
Quan hệ giữa Vladimir Putin và Tập Cận Bình được thắt
chặt sau vụ Nga chiếm Crimée, nhưng Trung Quốc đang thống trị trên tất cả lãnh
vực. Kinh tế Trung Quốc mạnh gấp sáu lần Nga và vẫn còn tăng trưởng, trong khi
Nga đang đi xuống. Thay vì là đối tác ngang hàng, Nga đang trở thành chư hầu của
Trung Quốc.
Trang bìa The Economist tuần lễ 27/07-02/08/2019.The
Economist
Đang trong mùa hè, các tuần báo Pháp giới thiệu những
chủ đề nhẹ nhàng. Le Point dành trang nhất và nhiều trang
trong cho hồ sơ đặc biệt « Những bí mật cuối cùng của các giáo đường
» ở Pháp. L’Obs quan tâm đến « Một Marx khác
», không phải Karl Marx mà là Thierry Marx, một đầu bếp kiêm doanh
nhân Pháp mở hệ thống trường dạy nghề giúp những người thất cơ lỡ vận có được một
cơ hội mới.
Hồ sơ của Courrier International tuần
này nói về « Các phương cách mới để di chuyển ». Có thể kể :
xe trượt (trottinette), taxi bay…người ta có nhiều chọn lựa về phương tiện di
chuyển, nhưng chủ yếu cần quan tâm đến môi trường.
Nga lép vế trong quan hệ với Trung Quốc
Về quan hệ Nga-Trung, bài viết của The
Economist nhận định « Hợp tác có lợi cho Trung Quốc hơn Nga » đi
kèm với hình vẽ một con gấu trúc lớn bệ vệ ngồi trên chiếc ngai màu đỏ có ngôi
sao vàng, bế trên tay một chú gấu nhỏ bé cầm lá cờ Nga, với tựa đề có phần mỉa
mai « Chiến hữu ».
Quan hệ giữa Vladimir Putin và Tập Cận Bình được thắt
chặt sau vụ Nga chiếm Crimée, nhưng Trung Quốc đang thống trị trên tất cả lãnh
vực. Kinh tế Trung Quốc mạnh gấp sáu lần Nga và vẫn còn tăng trưởng, trong khi
Nga đang đi xuống. Thay vì là đối tác ngang hàng, Nga đang trở thành chư hầu của
Trung Quốc.
Theo The Economist, nhận xét này dường
như có vẻ khắt khe. Nga dù sao cũng là cường quốc nguyên tử, với tư cách thành
viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Nga đang hiện đại hóa quân đội
và không ngần ngại sử dụng như ở Syria, tuần này các chiến đấu cơ Nga lần đầu
tiên đã tuần tra chung với Trung Quốc. Nhưng tốc độ phụ thuộc của Matxcơva vào
Bắc Kinh đang nhanh chóng tăng lên một cách đáng lo ngại.
Trung Quốc là thị trường quan trọng nhập nguyên liệu
của Nga. Tập đoàn dầu khí quốc gia Rosneft lệ thuộc nguồn tài chính Trung Quốc
và ngày càng bán nhiều dầu cho Bắc Kinh. Nga cũng muốn bớt phụ thuộc vào đồng
đô la, nên đồng nhân dân tệ nay chiếm phần quan trọng trong dự trữ ngoại hối.
Trung Quốc cung ứng nhiều phụ tùng chủ chốt cho hệ thống vũ khí Nga, và Putin
cũng cần đến Bắc Kinh trong việc kiểm soát người dân. Tháng trước Nga đã ký hợp
đồng phát triển mạng lưới 5G với Hoa Vi. Trung Quốc rất hài lòng, và Nga còn là
tiếng nói ủng hộ quan trọng trước những chỉ trích của phương Tây đối với Bắc
Kinh về nhân quyền và dân chủ.
Ông Putin
không có nhiều chọn lựa, sau khi bị phương Tây trừng phạt hoặc xa lánh do xâm
chiếm Crimée năm 2014, can thiệp vào bầu cử Mỹ năm 2016 và vụ đầu độc cha con cựu
điệp viên Skripal năm 2018. Ông có thể biện luận là tương lai nay tùy thuộc vào
Trung Quốc cùng với hệ thống tư bản nhà nước của người khổng lồ châu Á.
Tuy nhiên theo tờ báo, Putin đã lầm. Phiên bản tư bản
nhà nước theo kiểu Nga là nhằm tìm kiếm lợi nhuận thay vì hiệu quả, những người
thân cận ông tha hồ thủ lợi từ ngân sách – đó là một trong những nguyên nhân
khiến Trung Quốc chỉ đầu tư hạn chế vào Nga. Tại Trung Á, quân đội Trung Quốc
đóng quân ở Tajikistan và tập trận mà không buồn tham khảo ý kiến Matxcơva.
Thế giới cần tìm cách tách Nga ra khỏi vòng ảnh hưởng
của Trung Quốc trước khi quá muộn chăng ? Theo The Economist, sớm
muộn gì một tổng thống khác, kiểu như Alexei Navalny sẽ quay mặt với Bắc Kinh,
khi lại cần đến sự trợ giúp phương Tây. Và khi đó chủ nhân (nam hoặc nữ) Phòng
Bầu dục Nhà Trắng sẽ bắt chước ông Nixon : lên đường đi thăm Matxcơva.
Hồng Kông đang trong thời khắc nguy hiểm nhất từ sau Cách
mạng văn hóa
Cũng liên quan đến Trung Quốc, The
Economist nói về « Phong trào phản kháng ở Hồng Kông chống lại
các biểu tượng của Bắc Kinh ». Tờ báo nhận định, Hồng Kông đang sống
trong những thời khắc bạo lực nhất, nguy hiểm nhất kể từ sau Cách mạng văn hóa
của Mao Trạch Đông.
Bắc Kinh tức giận tuyên bố việc Văn phòng đại diện
Trung Quốc tại Hồng Kông bị coi là đích nhắm, là « thách thức nghiêm trọng
đối với chính quyền trung ương ». Người ta lo ngại Trung Quốc sẽ đưa
quân đội đến đàn áp, và như vậy sẽ là một sự kiện chưa từng thấy kể từ sau vụ
thảm sát Thiên An Môn năm 1989. Tuy nhiên theo tờ báo, điều này khó xảy ra vì sẽ
gây phẫn nộ trên toàn thế giới, dù phát ngôn viên bộ Quốc Phòng Trung Quốc đã
đe dọa trong cuộc họp báo ngày 24/7.
Nếu trước đây người biểu tình chỉ đòi trưởng đặc khu
Lâm Trịnh Nguyệt Nga (Carrie Lam) phải từ chức, thì nay yêu sách được mở rộng
sang cải cách dân chủ ; nhưng không có đòi hỏi nào được Bắc Kinh lắng nghe. Các
nhà đấu tranh tên tuổi ôn hòa, kể cả những khuôn mặt trẻ của Cách mạng Dù, nay
không có mấy ảnh hưởng lên phong trào phản kháng không có thủ lãnh này.
Những người biểu tình sử dụng các ứng dụng tin nhắn
mã hóa, mang theo quần áo thay đổi để tránh bị nhận dạng sau khi giải tán, sự ẩn
danh này khiến khó thể kiểm soát hoặc thương lượng với họ. Dù đôi khi xảy ra bạo
động, nhưng những người biểu tình cực đoan vẫn có được sự thông cảm nơi phe ôn
hòa. Ngược lại ít có sự đoàn kết ở phía bên kia. Giám đốc một tờ báo thân Trung
Quốc hôm 23/7 đã từ chức, và Phòng Thương mại Hồng Kông vốn ủng hộ chế độ, nay
lên án bạo động ở quận Nguyên Lãng (Yuen Long) và còn đi xa hơn : kêu gọi chính
quyền nhượng bộ.
Lý Bằng : Tên đồ tể Thiên An Môn
Le Monde số cuối tuần
vẽ lên chân dung Hà Vận Thi (Denise Ho), ngôi sao nhạc pop Hồng Kông đã dám
thách thức Trung Quốc. Là ca sĩ kiêm nhà soạn nhạc Cantopop (C-pop) tên tuổi,
cuối tuần rồi cô tiếp tục là một trong những người nổi tiếng hiếm hoi, công
khai tham gia cuộc đấu tranh vì dân chủ ở Hồng Kông. Một chân dung đối nghịch
khác trên The Economist là « Tên đồ tể Thiên An Môn »
: cựu thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng qua đời ở tuổi 90.
Đêm 20/05/1989, khuôn mặt Lý Bằng đã ghi đậm dấu ấn
lên ký ức Trung Quốc. Ông ta xuất hiện trên truyền hình nhà nước, mặc chiếc áo
đại cán kiểu Mao, tóc chải ngược, tuyên bố thiết quân luật tại Bắc Kinh. Trước
đó tại Bộ Chính trị, Lý Bằng đã tranh cãi dữ dội với tổng bí thư chủ trương cải
cách Triệu Tử Dương (Zhao Ziyang), và đã giành chiến thắng nhờ có sự ủng hộ của
Đặng Tiểu Bình. Hàng trăm, thậm chí có lẽ hàng ngàn sinh viên đã bị thảm sát,
và danh hiệu « Đồ tể Bắc Kinh » thường được dành cho Lý Bằng.
Thế giới hậu Thiên An Môn thuộc về họ Lý, chủ trương
tự do của Triệu Tử Dương không bao giờ xuất hiện trở lại. Lý Bằng tiếp tục làm
thủ tướng suốt gần một thập niên, và gia đình ông ngự trị trong ngành năng lượng
Trung Quốc. Hai con trai và một con gái của Lý Bằng là quan chức của bộ Năng Lượng,
một người con trai khác làm thống đốc tỉnh Sơn Tây giàu có về than đá. Lý Bằng
rất hãnh diện về công trình đập khổng lồ Tam Hiệp tốn kém 10 tỉ đô la, làm 1,3
triệu dân phải di dời, bất chấp tố cáo của giới bảo vệ môi trường và các quốc
gia ở hạ nguồn.
Vấn đề trại cải tạo Tân Cương được « quốc tế hóa »
Cũng về Trung Quốc, The Economist nhận
xét « Hành động của Bắc Kinh ở Tân Cương đã trở thành chủ đề tranh cãi
quốc tế ».
Sau khi 22 nước chủ yếu là phương Tây gởi thư lên Hội
đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc yêu cầu Trung Quốc đóng cửa các trại cải tạo
giam giữ người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, vài ngày sau lại xuất hiện một lá thư
khác của 37 nước ủng hộ Bắc Kinh, gồm những nước thường bị phương Tây chỉ
trích.
Không có gì ngạc nhiên trước những chữ ký của
Venezuela, Nga, Ả Rập Xê Út, Ai Cập, hoặc những nước được Trung Quốc đầu tư như
Pakistan và Lào, vốn không muốn « cắn vào bàn tay đang mớm cho mình ». Nhưng
đáng phẫn nộ nhất theo tờ báo, là các nước vùng Vịnh, ủng hộ Trung Quốc vì nhiều
lý do từ quốc phòng, kinh tế thậm chí tôn giáo.
Chẳng hạn Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất do bị
Mỹ từ chối bán máy bay không người lái, đã quay sang mua drone Wing Loong 2 của
Trung Quốc. Năm 2018, Bắc Kinh đã ký các hợp đồng xây dựng và đầu tư trị giá 28
tỉ đô la tại Trung Đông, một khu vực khó thu hút được đầu tư nước ngoài. Nhưng
thông tin về các trại cải tạo Tân Cương ngày càng được tiêt lộ nhiều hơn, các
nhà lãnh đạo Hồi Giáo bắt đầu chịu đựng áp lực trong nước đòi bảo vệ các đồng đạo.
« Mùa hè rực rỡ » của nữ tổng thống Đài Loan
Còn tại Đài Loan, The Economist khi
nói về « Triển vọng tái đắc cử của bà Thái Anh Văn » đã ví von
: Mùa đông đi qua, mùa hè sắp tới đầy tươi sáng đối với nữ tổng thống.
Tờ báo nhắc đến chuyến công du vùng vịnh Caribê mới
đây của bà Thái Anh Văn với bốn ngày lưu lại trên đất Mỹ, dài nhất từ trước đến
nay, bất chấp Bắc Kinh kịch liệt phản đối. Bà đi tàu ngang qua tượng Nữ thần Tự
Do, gặp gỡ một số đại biểu Quốc Hội Hoa Kỳ, phát biểu tại đại học Columbia.
Trong lần quá cảnh trước đó, bà đến thăm NASA, trở
thành nhà lãnh đạo Đài Loan đầu tiên bước chân vào một cơ quan liên bang Mỹ kể
từ năm 1979. Các cuộc biểu tình ở Hồng Kông đã khiến cán cân nghiêng về phía bà
Thái Anh Văn trong cuộc bầu cử tổng thống sắp tới, còn phe Quốc dân đảng thân
Trung Quốc bị xuống dốc.
Boris Johnson và nguy cơ « no-deal »
Về châu Âu, trên trang bìa báo in The
Economist là hình vẽ tân thủ tướng Boris Johnson đang hào hứng lái chiếc
xe buýt hai tầng màu đỏ quen thuộc ở thủ đô Luân Đôn, mang dòng chữ «
Make Britain Great Again » (Làm cho nước Anh vĩ đại trở lại), lao thẳng
xuống con dốc đứng của đường trượt tàu lượn siêu tốc. Tờ báo Anh không ngần ngại
khẳng định « Để ngăn chận no-deal, các nghị sĩ bảo thủ phải sẵn sàng hạ
bệ Boris Johnson ! ».
Ông Boris Johnson đã gây bất ngờ khi thành lập một nội
các toàn những nhân vật cứng rắn. Priti Patel vốn ủng hộ tái lập án tử hình,
làm bộ trưởng Nội Vụ, Dominic Raab chủ trương Brexit « cứng », làm ngoại trưởng.
Tân thủ tướng tin rằng Donald Trump sẽ mang phao cứu sinh đến khi Anh quốc rời
bỏ Liên Hiệp Châu Âu (EU), điều này theo tờ báo là nguy hiểm, vào lúc Luân Đôn
phải khẳng định vị trí trong hồ sơ Iran.
Nhưng đáng ngại nhất là kế hoạch Brexit siêu thực của
ông. Bà Theresa May đã thất bại với những lời hứa không thể thực hiện được, còn
Boris Johnson phạm cùng một sai lầm, ở tầm vóc lớn hơn. Ông hứa bỏ điều kiện «
backstop » về một biên giới thực tế với Bắc Ireland, dọa không trả chi phí « ly
dị », và nhất định sẽ ra khỏi EU vào ngày 31/10 dù có thỏa thuận hay
không, « do or die » (hành động hay là chết). Nếu bà May có
hai năm, thì ông Johnson chỉ có ba tháng để biến những lời hứa được cho là bất
khả thi trên đây thành hiện thực.
Ra khỏi châu Âu mà không có thỏa thuận (no-deal) bằng
mọi giá sẽ là thảm họa, và The Economist cho rằng Nghị Viện Anh
chỉ còn cách bỏ phiếu bất tín nhiệm tân thủ tướng. Hoặc ít nhất chỉ cần lá phiếu
của vài nghị sĩ để giải tán chính phủ của đảng mình, sẽ là một sự kiện chưa từng
có kể từ năm 1940.
Xu thế thiên tả của Dân Chủ Mỹ
Nhìn sang Hoa Kỳ, bài xã luận của Le Point tuần
này nhận định, đành rằng các tweet của tổng thống Mỹ Donald Trump bảo bốn dân
biểu nữ da màu « quay về nguyên quán » là tệ hại, nhưng cũng
không nên giấu diếm một thực tế bao trùm. Đó là vấn đề bản sắc sẽ đóng vai trò
chủ chốt trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2020 tại Hoa Kỳ.
Hiệp hội Democratic Socialists of America (Dân chủ
Xã hội Mỹ), mà Alexandria Ocasio-Cortez và Rashida Tlaib - hai trong số bốn nữ
dân biểu trên - là thành viên còn người thứ ba Ilhan Omar là ủng hộ viên, là tổ
chức lớn nhất ở Mỹ cổ vũ cho chủ nghĩa xã hội, bất chấp các bài học thê thảm của
Venezuela và Cuba.
Theo Pew Research Center, có đến 46% cử tri Dân Chủ
tự nhận có khuynh hướng « tự do » (trong ngôn ngữ chính trị Mỹ có nghĩa là cánh
tả), tăng 18 điểm so với mười năm trước, còn số người « ôn hòa » sụt 7 điểm, chỉ
còn 37%. Donald Trump biết điều đó, và các tweet của ông nhằm chia rẽ đối thủ
hơn là huy động phe mình. Ông tìm cách làm cho Ocasio-Cortez, một người cực
đoan, và Omar, bài Do Thái kịch liệt ; xuất hiện như khuôn mặt thật của Dân Chủ,
gây bối rối cho phe Dân Chủ ôn hòa mà đại diện là bà Nancy Pelosi.
Thách thức phi toàn cầu hóa
Nhìn chung về kinh tế thế giới, Le
Point cổ vũ cho « Một Bretton Woods mới chống lại phi toàn cầu
hóa ». Trong một thế giới đang trở nên bất ổn do chủ nghĩa dân túy và
xu hướng co cụm, các nhà lãnh đạo thế kỷ 21 đang phải đối đầu với cùng một
thách thức của năm 1944.
Cách đây 75 năm, từ ngày 1 đến 22/07/1944 đã diễn ra
hội nghị Bretton Woods tập hợp 44 quốc gia đồng minh, trong khi các trận đánh vẫn
đang ác liệt ở châu Âu và Thái Bình Dương. Mục tiêu là chuẩn bị cho hòa bình và
lập ra một trật tự kinh tế, tiền tệ ổn định, tránh những sai lầm hồi năm 1918.
Tiếp đến là sự ra đời của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) rồi IBRD (BIRD theo tiếng Pháp),
tiền thân của Ngân hàng Thế giới (WB).
Hệ thống tiền tệ của Bretton Woods biến mất cùng với
quyết định của tổng thống Mỹ Richard Nixon năm 1971, chấm dứt việc quy đổi đô
la ra vàng, nhưng tinh thần vẫn được giữ nguyên. Đồng euro được tung ra vào đầu
năm 1999 nhằm ổn định thị trường tiền tệ châu Âu, IMF chuyên tâm vào việc xử lý
nợ công…Hệ thống đa phương Bretton Woods cũng đã góp phần vào việc giải quyết
cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, nhưng cái giá phải trả là giai cấp trung
lưu các nước phát triển chịu thiệt thòi. Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa bảo hộ
tái xuất hiện, song song đó Trung Quốc triển khai mô hình độc tài đối chọi với
dân chủ, và tìm cách xuất khẩu qua « Một vành đai, một con đường ».
No comments:
Post a Comment