Trần Hữu Dũng
Thời Báo Kinh tế Sài
Gòn Xuân Mậu Tuất 2/2018
Có
lẽ bạn, cũng như tôi, khi du lịch hoặc đến làm việc ở một nơi mà giọng nói hoặc
khuôn mặt của mình không giống người địa phương, thường được hỏi: Ông/bà từ đâu
đến? Hoặc, thân mật hơn, gốc gác của ông/bà ở đâu?
Câu
hỏi ấy, thoạt nghe thì đơn giản nhưng lắm khi không dễ trả lời. Tôi
là người Việt Nam, sống ở Mỹ nhiều năm, nên mỗi khi tôi sang Âu Châu, chẳng hạn,
khi được hỏi "anh từ đâu đến?" thì tôi không khỏi ngập ngừng trong
vài giây để chọn câu trả lời: Tôi từ Việt Nam, hoặc tôi từ bang Ohio (nơi tôi
đang sống), hoặc từ Mỹ.
Tình
tự quyến luyến với quê hương, gốc gác, thay đổi theo thời gian và cuộc sống của
mỗi người. Có điều là, khi sự di chuyển ngày càng dễ dàng (không những
trong một quốc gia mà còn quốc tế, thậm chí liên lục địa) thì cảm giác về “gốc
gác” ngày càng nhạt mờ.
Từ
cá nhân đến quốc gia, và thế giới
Ghi
lại vài cảm nghĩ trên đây không chỉ để chia sẻ sự nhớ nhung man mác, lắm lúc
nhói đau, của mỗi chúng ta lúc xa quê. Sự gắn bó đối với quê hương là tự nhiên
và cao quý, nhưng phải nhìn nhận rằng nó không chỉ thể hiện qua những bài thơ,
những bản nhạc, hay những câu chuyện kể với nhau qua ly rượu, chén trà. Qua lịch
sử và trong thực tế hiện tại, lắm khi nó cũng là lực cản những biển đổi tích cực
trong xã hội, là nguồn gốc nhiều phong trào chính trị phản tiến bộ. Các hậu quả
tiêu cực này có thể truy về hai đặc tính liên hệ đến tình tự của cá nhân đối với
cộng đồng gốc rễ của mình.
Một
là, hầu hết mọi quốc gia ngày nay đều là đa chủng tộc, một số được hình thành
sau Thế Chiến II do sự thỏa thuận (có phần áp đặt) giữa các cường quốc thực dân
cũ, do đó gốc rễ của một người không nhất thiết là gốc rễ của người khác, dù
cùng một quốc gia.
Hai
là, vì nhiều lý do, mức độ lưu động của mỗi người giữa các vùng miền và nghề
nghiệp có khác nhau. Do đó, lợi ích của tiến bộ công nghệ, của toàn cầu hóa (mà
phần lớn bắt nguồn từ sự luân lưu dễ dàng của hàng hóa lẫn lao động) là không đồng
đều đối với những người cùng quốc gia, nói chi đến giữa quốc gia này và quốc
gia khác.
Phát
hiện hai đặc tính gắn liền với “gốc rễ” ấy, nhiều nhà bình luận đã đưa ra những
giải thích rất thuyết phục đối với những sự kiện chấn động thế giới trong vài
năm gần đây.
(1)
Đa số dân Anh muốn Anh rút ra khỏi Liên hiệp Châu Âu
Dù
nước Anh là thành viên của Liên hiệp Châu Âu (EU) từ năm 1973, đã có nhiều người
Anh phản đối việc này ngay từ đầu, viện dẫn không ít lý do -- từ lịch sử, văn
hoá, đến kinh tế, chính trị. Tuy nhiên, tin rằng những người phản đối
là thiểu số, và để dứt khoát khẳng định chính sách của Anh là kết chặt với cộng
đồng châu Âu, thủ tướng Anh David Cameron đã mở một cuộc trưng cầu dân ý vào
tháng 6-2016, đinh ninh rằng đa số đồng bào của ông sẽ bỏ phiếu ở lại EU.
Thật
bất ngờ khi đa số phiếu (phải nói cho chính xác: không phải đa số dân Anh, vì
có nhiều người không bỏ phiếu) là muốn Anh rời khỏi EU!
Đã
có rất nhiều giải thích kết quả này. Thú vị và sâu sắc nhất có là nhận xét của
David Goodhart, nhà bình luận người Anh. Theo Goodhart, nước Anh ngày nay có
hai nhóm ngày càng đối nghịch nhau. Một nhóm là những người tốt nghiệp
đại học, tư duy phóng khoáng, dễ dàng tiến thân trong sự nghiệp, cũng như dễ
dàng chuyển từ công nghiệp này sang công nghiệp khác, rời vùng này sang vùng
khác (kể cả ra nước ngoài). Goodhart gọi họ là “những người từ Bất-Cứ-Nơi-Nào"
(“people from Anywhere”) vì họ hầu như không còn cảm thấy bị buộc chặt vào một
nơi nào. Nhóm thứ hai là thành phần mà Goodhart gọi là “những người
từ Một-Nơi-Nào-Đó (“people from Somewhere). Nhóm này tương đối bảo thủ hơn
nhóm thứ nhất, ý thức mạnh mẽ hơn về căn tính quốc gia, và trân quý lối sống cỗ
truyền mà họ cảm thấy đang dần mất đi. Theo Goodhart, chính nhóm thứ hai đã bỏ
những lá phiếu quyết định nước Anh đòi “ly dị” với EU.
Điều
đó cũng dễ hiểu, bởi lẽ đa số nhóm thứ nhất là thị dân, hưởng thụ những thành
quả của tiến bộ công nghệ, của viễn thông, của toàn cầu hóa. Nhóm thứ
hai (theo ước lượng của Goodhart thì không dưới 20% dân Anh) thì trái lại, họ sống
ở nông thôn, ở các thành phố nhỏ trong nội địa. thu nhập không cao và bị chững
lại, và cảm thấy bị “bỏ lại phía sau”. Rồi gần đây, những người này lại thấy những
nét văn hóa cộng đồng thân thuộc của họ bị hăm dọa bởi những làn sóng di dân từ
các văn hóa rất khác.
(2)
Trump đắc cử tổng thống Mỹ
Sau
vụ Anh bỏ phiếu rời EU (sự kiện này thường được gọi là “Brexit”, gộp hai chữ
“British” và “exit”) vào mùa hè 2016 thì việc Donald Trump đắc cử tổng thống Mỹ
vào mùa thu tiếp đó, càng gây một sự ngạc nhiên hầu như chưa từng có cho giới
bình luận Tây phương, nếu không nói là đại đa số người Mỹ. Tại sao một người
không hề có kinh nghiệm chính trị, ăn nói bỗ bã, lắm “thói hư tật xấu”, như
Trump lại có thể thắng bà Hillary Clinton, một chính trị gia lão luyện và khôn
khéo?
Trong
hàng nghìn bài báo, hàng chục quyển sách phân tích, giải thích kết quả bất ngờ
này, nhiều nhà bình luận đưa ra nhận xét tương tự như của David Goodhart trên
đây. Eugene Robinson của báo Washington Post viết: Ngày nay, lằn
ranh phân cách (trong xã hội Mỹ) có lẽ là giữa (một bên là) những thành phố lớn và (bên kia là) những
vùng xa ngoại ô và những thị trấn nhỏ; giữa những người tốt nghiệp đại học và
những người học vấn kém hơn; giữa những người nhận lãnh lợi ích của toàn cầu
hoá, và những người không được những lợi ích ấy, và giữa những người da trắng
hiện là đa số và các nhóm dân thiểu số mà chỉ trong vài thập niên sắp đến sẽ trở
thành đa số. Kết quả các cuộc thăm dò ý kiến đều cho thấy
nhóm thứ nhất (tương tự như “những người từ Bất-Cứ-Nơi-Nào” của Goodhart) chọn
bà Clinton, trong lúc nhóm thứ hai (tương tự như “những người từ Một-Nơi-Nào-Đó”)
bỏ phiếu cho ông Trump. Nói cách khác, theo ngôn ngữ của tôi trong bài này, những
người ít nặng tình với cộng đồng gốc rễ thì chọn bà Clinton, còn những người nặng
tình với gốc rễ, thậm chí bài ngoại, thì bảo thủ hơn, chọn ông Trump.
Cần
nhấn mạnh rằng tình tự cộng đồng của những người ở thôn quê, tỉnh nhỏ, thu nhập
không cao… chẳng phải hoàn toàn là do kỳ thị chủng tộc hoặc giới tính (Hillary
Clinton đã rất sai lầm khi ám chỉ như thế -- và bị cho là miệt thị đông đảo cử
tri -- trong một diễn văn tranh cử). Sự quyến luyến với cộng đồng của
những người này cũng có nhiều lý do kinh tế rất cụ thể. Sống ở tỉnh
nhỏ, có thu nhập thấp… họ thường phải nương tựa vào gia đình, vào láng giềng,
trong sinh hoạt hàng ngày (như giữ con cho nhau, hoặc đưa đón đi chợ, đi khám sức
khoẻ, hay những việc vặt vãnh khác). Mạng lưới gia đình, xóm giềng đối với họ
là cần thiết, là rất quan trọng, vì lý do kinh tế. Sự quyến luyến với
cộng đồng, gốc rễ của họ không chỉ là tình cảm trừu tượng.
(3)
Phong trào chống di dân từ nước ngoài và chia rẽ tôn giáo
Ngoài
hai sự kiện Brexit và Trump kể trên, vài diễn biến khác cũng được nhiều người
cho là có nguyên nhân từ tâm thức “gốc gác”. Chẳng hạn như ở Trung
Âu và Đông Âu gần đây có phong trào chống đối di dân từ Trung Đông và Bắc
Phi. Tất nhiên, sự chống đối này cũng có lý do kỳ thị chủng tộc,
nhưng cũng phải nhìn nhận rằng nó có phần phản ảnh sự “sợ hãi” của dân địa
phương rằng văn hóa bản địa sẽ bị loãng đi, biến dạng, khi những người nhập cư
đem đến cộng đồng quen thuộc của họ một nền văn hóa rất khác...
Trong
một cuốn sách gần đây, giáo sư (cũng có thời là lãnh tụ một đảng lớn ở Canada)
Michael Ignatieff đã phân biệt “toàn cầu hóa kinh tế” và “toàn cầu hóa đạo đức”
(globalization of morals). Theo Ignatieff, quả là toàn cầu hóa kinh
tế có làm cho các quốc gia gần nhau hơn, nhưng ông đặt câu hỏi: Hình thức toàn
cầu hóa (kinh tế) ấy có làm hệ đạo đức của các quốc gia (ông gọi đó là “toàn cầu
hóa đạo đức”) giống nhau hơn không? Ignatieff cho rằng câu trả lời sẽ
là “không”. Theo ông, toàn cầu hoá không chỉ xoá bỏ biên giới hiện hữu,
đem con người gần nhau hơn, mà oái oăm thay, nó có thể tạo ra những biên giới mới. Trong
lúc biên giới chính trị và kinh tế mờ nhạt đi thì biên giới tôn giáo và chủng tộc
lại sâu đậm hơn.
Lấy
sự thảm sát dân Rohingya ở Myanmar để dẫn chứng, Ignatieff cho rằng dân chủ
không nhất thiết sẽ gia tăng sự tôn trọng nhân quyền: Chính những người Myanmar
từng tranh đấu cho dân chủ (dẫn đầu là bà Aung San Suu Kyi) đã làm ngơ, nếu
không ngầm ủng hộ sự tàn sát ấy. Tại sao như thế? Theo Ignatieff,
Myanmar là một quốc gia đa chủng tộc và người dân Myanmar có những ý thức khác
nhau về “gốc rễ”, tùy theo họ là thuộc phe (đa số) theo đạo Phật, hay phe thiểu
số theo đạo Islam như người Rohingya. Chính sự “mở cửa” (toàn cầu
hóa) của Myanmar sau khi dân chủ được tái lập đã phơi trần sự khác biệt này,
đưa đến sự đàn áp có tính diệt chủng như hiện này.
Chúng
ta phải làm gì?
Từ
những nhận định đầu tiên về sự quý báu của tình cảm đối với gốc gác, quê hương…
đến nhận xét về những sự kiện gần đây liên hệ đến tác động của tình cảm này đối
với xã hội, quốc gia, và quan hệ quốc tế thì phải nhìn nhận rằng vấn đề “gốc rễ”
không phải là đơn giản. Nó có nhiều hậu quả phức tạp, bất ngờ, thậm chí
tiêu cực. Nó có thể gây ra những rạn nứt trong xã hội, tuỳ thuộc vào
ảnh hưởng chênh lệch của toàn cầu hoá, của di dân đối với những thành phần xã hội
và kinh tế, ở những vùng miền khác nhau.
Chúng
ta cần nhìn nhận sự đan xen chặt chẽ giữa các xu hướng công nghệ và xu hướng xã
hội. Toàn cầu hóa ưu đãi những thành phần dễ dàng chuyển từ nghề này
sang nghề khác. Nhìn từ một góc cạnh nào đó, sự mềm dẻo (trong di dân và nghề
nghiệp) là một dạng bất công bình thu nhập. Những người thích ứng
nhanh với công nghệ, dễ dàng di chuyển từ vùng này đến vùng khác, đổi từ nghề
này sang nghề khác, trong cùng một quốc gia cũng như quốc tế, sẽ là những người
có thu nhập gia tăng nhanh chóng, nhưng lại là những người mà ý thức về nguồn gốc,
về quê hương ngày càng (tương đối) kém mặn nồng. Ngược lại, những
người không dễ di chuyển, khó thay đổi nghề nghiệp, thì lại thường giữ được
tình cảm gốc gác quê hương một cách thiết tha hơn.
Nói
cách khác, không phải ai cũng chấp nhận sự thay đổi nhanh chóng do toàn cầu hoá
đem lại. Sự đối kháng không chỉ vì chủng tộc, vì văn hoá, mà còn vì
kinh tế, như trong trường hợp những người lo ngại bị toàn cầu hoá bỏ lại
phía sau.
Muốn
phát triển kinh tế, tiến bộ công nghiệp thì ta cần những người dễ dàng thích ứng
với những thay đổi nhanh chóng, nhưng chúng ta cũng không nên quên những người,
vì lý do này hoặc lý do khác, khó thay đổi. Sự chia rẽ giữa hai
thành phần này, nếu ngày càng rộng hoặc không giảm đi, sẽ phát sinh những biến
động trong một quốc gia cũng như trong quan hệ quốc tế.
Dù
muốn dù không, thay đổi là tất yếu. Những người chấp nhận và thích ứng
với những thay đổi ấy sẽ khấm khá, thịnh vượng hơn. còn những người không chấp
nhận sẽ bị bỏ lại phía sau. Nhưng phải nhìn nhận rằng trong sự thay
đổi ấy chúng ta sẽ mất đi một phần của chính chúng ta, những tình cảm về gốc rễ,
về đặc tính của cộng đồng.
Nhìn
nhận sự mất mát (ít nhất cũng là mờ nhạt) ấy không có nghĩa là chúng ta phải chống
lại thay đổi. Nhưng mỗi chúng ta phải thích ứng theo cách của từng người; cách
thích ứng của người này không giống của người khác, không chỉ vì sở thích mỗi
người một khác mà còn vì hoàn cảnh của mỗi cá nhân, tùy cách chúng ta được dạy
dỗ, truyền thống gia đình của chúng ta.
Mỗi
quốc gia phải chấp nhận nhu cầu “nhìn ra ngoài”, nhưng cũng phải tôn trọng những
người gắn bó với làng mạc, đất đai. Những người thụ hưởng lợi ích của
toàn cầu hóa có trách nhiệm chăm lo những người bị “bỏ lại phía sau”.
Trách
nhiệm ấy không chỉ là trách nhiệm đạo đức nhưng còn là nhu cầu chính trị và
kinh tế. Thiếu nó, xáo trộn xã hội sẽ xảy ra. Các nhà lãnh đạo chính
trị, những nhà văn hóa cần ý thức những điều ấy trong những hoạch định chính
sách cho quốc gia, nhất là trong lĩnh vực đối ngoại.
Trần
Hữu Dũng
13/12/2017
No comments:
Post a Comment