Tue, 09/01/2015 - 11:03 — nguyenthituhuy
Rốt cuộc, những câu hỏi này (« phải làm
gì ? », « phải sống như thế nào ? ») sẽ có giá trị
chung và mang một ý nghĩa rộng lớn hoặc mang lại hiệu quả thiết thực chỉ khi
nào mà mỗi người chúng ta tự đặt cho chính mình. Nghĩa là chỉ khi nào sự trăn
trở về lối sống, sự khao khát hành động trở thành nhu cầu nội tâm của từng người
thì lúc đó xã hội mới có đủ động lực để thay đổi.
Thực ra việc chúng ta đòi hỏi những người đang tranh
đấu (hay bất kỳ ai) phải có câu trả lời cho các câu hỏi đang ám ảnh chúng ta là
một đòi hỏi không thỏa đáng. Càng không thỏa đáng trong trường hợp chúng ta
khoanh tay ngồi nhìn, đóng vai người quan sát và đòi hỏi những người đang tranh
đấu phải chỉ ra cho chúng ta phải làm gì để có kết quả cuối cùng. Đòi hỏi đó
không thỏa đáng, bởi vì những người tranh đấu đang đi tìm câu trả lời bằng
chính hành động của họ, và họ hành động theo niềm tin của họ, tin rằng họ đang
làm điều cần phải làm, dù có thể thất bại, dù phải trả giá và không biết kết quả
sẽ như thế nào, nhưng họ vẫn làm theo sự thúc đẩy nội tâm của họ.
Để chứng minh cho điều này, tôi dẫn lại sự việc rằng,
vào những năm 1970, dù Havel hành động theo sự dẫn dắt của đòi hỏi nội tâm và
theo sự phân tích của lý trí, nhưng ở thời điểm ấy ông không có câu trả lời chắc
chắn và không hình dung được kết quả của các hoạt động mà ông đang tiến hành,
không hình dung được kết cục của Liên Xô và Đông Âu vào khoảng mười năm sau đó.
Vì không có câu trả lời chắc chắn cho tương lai, nên
Havel lúc đó hình dung ra hai khả năng, tôi trích nguyên văn, và tách câu văn của
Havel thành 2 đoạn cho độc giả dễ theo dõi :
- “Hoặc là hệ thống hậu toàn trị sẽ tiếp tục phát triển (nghĩa là, sẽ có khả năng tiếp tục phát triển), và do đó, chắc chắn sẽ tiến gần hơn đến viễn cảnh đáng sợ mà Orwell nói về thế giới của sự thao túng toàn diện [Ý nói thế giới được mô tả trong tác phẩm 1984 của G. Orwell (Người dịch)], trong khi mọi biểu hiện của sống trong sự thật sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn;”
- “hoặc là đời sống độc lập của xã hội(...), trong đó có các “phong trào bất đồng chính kiến”, sẽ từ từ nhưng chắc chắn trở thành một hiện tượng xã hội ngày càng quan trọng hơn, có vai trò thực sự trong đời sống xã hội, phản ánh ngày càng rõ ràng hơn và ảnh hưởng đối với tình hình chung cũng ngày càng tăng lên. Đương nhiên là đấy luôn luôn chỉ là một trong nhiều tác nhân có ảnh hưởng tới hoàn cảnh và nó chỉ vận hành trong khung cảnh và trong sự phối hợp với những tác nhân khác và phù hợp với khung cảnh đó.” (Trích “Quyền lực của kẻ không quyền lực”, viết năm 1978).
Dù Havel lúc đó không hình dung được một kết cục cụ
thể, chỉ dám nói tới ảnh hưởng đối với tình hình chung khi các phong trào đấu
tranh được nhân rộng và xã hội có được đời sống độc lập, nhưng sự sụp đổ của
Liên Xô và Đông Âu xã hội chủ nghĩa đã chứng minh khả năng thứ hai trong phán
đoán của Havel. Sự phát triển của các phong trào bất đồng chính kiến và sự lớn
mạnh của xã hội dân sự rút cuộc đã tác động tới cấu trúc chính trị và làm thay
đổi toàn bộ xã hội, đã làm chuyển động toàn bộ hệ thống toàn trị Đông Âu.
Tuy nhiên, nếu so với Đông Âu thì phải chăng tình
hình của Việt Nam dường như lại đang chứng minh cho khả năng thứ nhất trong
phán đoán của Havel? Liệu có phải Havel có lý khi nhìn thấy chủ nghĩa toàn trị
tiếp tục phát triển, trong trường hợp các hoạt động bất đồng chính kiến và các
hoạt động xã hội dân sự không đủ mạnh để trở thành phong trào rộng lớn, và thực
tế Việt Nam đang ở trong trường hợp này? Liệu có phải sự tồn tại quá lâu trong
cơ cấu toàn trị đã khiến cho hệ thống quyền lực ở nước ta hiện nay đã đạt tới sự
thao túng toàn diện, còn người dân thì đã đánh mất thói quen sống
trong sự thật? Liệu có phải chúng ta sẽ không bao giờ thoát khỏi cái viễn cảnh
đáng sợ mà Orwell đã tiên báo bằng tác phẩm văn học và Havel đã tiên báo trong tiểu
luận chính trị của ông?
Câu trả lời không do nhóm đặc quyền lãnh đạo quyết định,
không do nhóm thiểu số những người đang tranh đấu quyết định, câu trả lời do
chính tất cả mọi người trong xã hội quyết định.
Vì sao?
Vì nhóm đặc quyền lãnh đạo hiện nay không đưa ra những
dấu hiệu cho thấy rằng có người trong số họ hiểu được ý nghĩa thực sự của công
việc lãnh đạo (thế nào là công việc lãnh đạo một quốc gia, cần phải trở lại với
vấn đề này vào một dịp khác; có lẽ người lãnh đạo cuối cùng trong bộ máy chứng tỏ
mình hiểu được ý nghĩa của công việc quản lý là ông Nguyễn Sự, nhưng ông đã chủ
động từ bỏ hệ thống cách đây không lâu). Đối với họ làm lãnh đạo là để phục vụ
cho lợi ích cá nhân và lợi ích gia đình. Và để phục vụ cho lợi ích cá nhân thì
bằng mọi giá họ phải duy trì cơ chế chính trị hiện tại, cơ chế toàn trị. Vì thế,
dĩ nhiên họ chỉ có một quyết định: dẫn chúng ta, và cả họ, thẳng tới thế giới của
Orwell, thẳng tới trại súc vật. Đó là điều mà họ đã và đang làm, kể từ khi họ
giành được quyền lực. Họ đang xây cái trại súc vật và nhốt cả họ lẫn chúng
ta vào đó.
Những người đang tranh đấu hiện nay không quyết định
được tình thế, bởi họ quá thiểu số, quá đơn độc, không có được sự ủng hộ của số
đông, trong khi chính quyền nắm toàn bộ các bộ máy quyền lực: công an, quân đội,
truyền thông, giáo dục, luật pháp... Ngoài ra, những câu hỏi “làm gì?”, “sống
như thế nào?” những người đang đấu tranh đã đặt ra cho chính họ, và họ đang trả
lời bằng chính hành động của họ: lập ra một blog, lập ra một tờ báo, lập ra một
nhóm, tham gia vào một phong trào... Gần đây nhất Hội Cựu Tù nhân Lương tâm và
Hội Anh em Dân chủ đã mở kênh truyền hình “Lương tâm TV”. Những người đó, họ
đang làm và đang sống trong sự thật, và chấp nhận trả giá cho lối sống của họ.
Vậy, rốt cuộc, tình thế chỉ có thể xoay chuyển khi
có một áp lực đủ lớn của toàn xã hội. Chính Havel cũng đã nói điều này trong tiểu
luận chính trị mà tôi đã dẫn trên đây: “Cố gắng cải cách chính trị không phải
là nguyên nhân làm cho xã hội bừng tỉnh, mà là kết quả chung cuộc của sự bừng tỉnh
ấy.” Để có thể dẫn tới các cải cách chính trị thì cần có sự bừng tỉnh của toàn
bộ xã hội. Kể cả khi cải cách chính trị được tiến hành từ bộ phận lãnh đạo cấp
cao, thì hành động cải cách ấy cũng là kết quả của sự bừng tỉnh của đa số mọi
người. Nghĩa là sự thức tỉnh của xã hội tạo áp lực lên bộ máy chính trị và dẫn
tới thay đổi. Trường hợp Liên Xô và Đông Âu là minh chứng rõ rệt của điều này.
Và dĩ nhiên, sẽ không có sự thức tỉnh của toàn xã hội
nếu không có sự bừng tỉnh của mỗi người.
Vậy, những câu hỏi “làm gì?”, “sống như thế nào?”, mỗi
người phải tự đặt ra cho chính mình, và tìm câu trả lời cụ thể ở trong chính vị
thế cụ thể của mình. Bất kỳ ai cũng có thể sống trong sự thật, theo cương vị của
mình. Đó là điều mà một giáo viên như Đỗ Việt Khoa đã làm. Ta hãy hình dung một
viễn cảnh: có khoảng 80% (hoặc 50% thôi) giáo viên sống và hành động như Đỗ Việt
Khoa, lúc đó nền giáo dục có thể vận hành lành mạnh. Nhưng thực tế là chúng ta
chỉ có một số rất ít giáo viên dám “sống trong sự thật”, vì vậy mà Đỗ Việt Khoa
phải bật ra khỏi ngành giáo dục, và ngành này hiện đang rất thối nát, bằng chứng
chúng ta đã có đủ, không cần phải nhắc lại. Nhưng không riêng gì giáo dục, mọi
ngành đều thối nát như vậy. Bởi vì trong xã hội chúng ta, miền Bắc tính từ 1954
và miền Nam tính từ 1975, guồng máy chính trị đã đẩy rất xa hiện tượng mà Havel
nhìn thấy rõ ở Đông Âu vào thập kỷ 70: hệ thống làm cho con người tha hóa, và đến
lượt mình con người đã tha hóa lại bảo vệ hệ thống ấy như là bảo vệ chính họ, bởi
vì họ là một phần của hệ thống, chính họ làm nên hệ thống.
Liệu chúng ta còn có khả năng sống trong sự thật? Liệu
chúng ta còn có khả năng thoát khỏi sự dối trá?
Chính việc sống trong sự thật sẽ góp phần làm lung
lay nền tảng của chế độ toàn trị, bởi cách sống đó chống lại sự dối trá vốn là
nguyên lý của chế độ toàn trị.
Sống trong sự thật không hẳn là bất đồng chính kiến.
Đỗ Việt Khoa không phải là một người bất đồng chính kiến, ông ấy chỉ muốn sống
và làm việc một cách trung thực, ông chống lại sự gian lận trong thi cử. Nhưng
chính những người như ông ấy, bằng cách sống trong sự thật, buộc phải chống lại
sự dối trá của xã hội, và do đó sẽ đi tới chỗ tạo ra một đời sống độc lập.
Havel cũng nói rõ rằng những người như thế sẽ đóng góp vào hoạt động xã hội dân
sự mà không nhất thiết phải là bất đồng chính kiến.
Havel viết: “những người, bằng cách này hay cách
khác, tham gia vào đời sống độc lập của xã hội, những người hoàn toàn không nhất
thiết phải là “người bất đồng chính kiến”. Đấy có thể là các nhà văn viết theo
ý mình mà không quan tâm tới bộ máy kiểm duyệt hay đòi hỏi của chính quyền, những
người truyền bá tác phẩm của họ, dưới dạng samizdat [tư liệu cấm], đấy là
nói khi các nhà xuất bản của nhà nước không chịu in. Đấy cũng có thể là
các nhà triết học, sử học, xã hội học, hay tất cả những nhà nghiên cứu độc lập
– đấy là nói những người không thể làm việc với các kênh chính thức hoặc bán
chính thức – truyền bá tác phẩm của mình dưới dạng samizdat, hay những người
tổ chức các cuộc thảo luận, giảng bài và hội thảo do tư nhân tổ chức. Đấy có thể
là các giáo viên, những người kín đáo dạy thanh niên những điều vốn bị cấm kị
trong các trường công, những linh mục đang tại vị, hoặc đã bị phế truất, nhưng
vẫn cố gắng thực hành đời sống tôn giáo tự do; các họa sĩ, nhạc sĩ và ca sĩ, những
người đang lao động nghệ thuật mặc dù bị các cơ quan của nhà nước theo dõi; và
tất cả những người, bằng mọi phương tiện sẵn có, cố gắng thể hiện và bảo vệ các
lợi ích xã hội thực sự của người lao động, trả lại ý nghĩa đích thực cho các
công đoàn, hay sáng lập các công đoàn độc lập; những người không sợ hãi khi tìm
cách buộc các quan chức phải lưu tâm tới những trường hợp bất công và những người
đấu tranh để buộc người ta phải tuân thủ luật lệ; và những nhóm thanh niên đang
thoát ra khỏi những hành động thao túng và sống theo ý của mình, sống theo những
giá trị mà mình tôn trọng.”
Bao giờ có nhiều người trong chúng ta mong muốn sống
trong sự thật và bao giờ mong muốn đó chuyển thành hành động khiến ta hành động,
nghĩa là khiến ta chọn cách sống trong sự thật, như Đỗ Việt Khoa đã làm, thì
lúc đó xã hội dân sự mới có thể lớn mạnh.
Tóm lại, những câu hỏi “làm gì?” và “sống như thế
nào?” không thể là câu hỏi được đặt ra cho người khác. Đó là những câu hỏi mà mỗi
người phải tự đặt cho chính mình, nếu chúng ta muốn xã hội thay đổi. Xã hội
không thể thay đổi nếu chúng ta chỉ nhìn thấy lỗi của người khác, mà không thấy
rằng nếu không có sự đồng lõa của mỗi người thì xã hội đã không thể vận hành
theo cách thức hiện nay. Xã hội không thể thay đổi nếu mỗi người không tự thấy
rằng chính mình sẽ phải đóng góp vào sự thay đổi đó, chứ không thể ngồi chờ người
khác.
Hiện trạng của Việt Nam hiện nay đang
là như vậy: chỉ có một số vô cùng ít những người tranh đấu cho sự thật và sống
trong sự thật, còn lại gần như toàn bộ xã hội vẫn trong tình trạng mê ngủ. Nhiều
người không phải là không biết, tức là đã tỉnh, nhưng chọn thái độ ngồi chờ và
than thở mỗi khi có sự cố xảy ra. Than thở trong các quán cà phê, trên các bàn
nhậu, trong các không gian riêng, nhưng không làm gì cả, ngay đến một chữ ký
hoàn toàn không gây hậu quả gì họ cũng không ký. Nhưng nếu tất cả cùng chờ thì
ai sẽ là người làm thay đổi xã hội và bao giờ có sự thay đổi xã hội? Câu trả lời
quá dễ: chẳng có ai và chẳng bao giờ. Đấy là lý do khiến ở trên tôi nói rằng thiểu
số quá ít ỏi những người đang tranh đấu ở Việt Nam sẽ không thể làm biến chuyển
xã hội, nếu không có sự hỗ trợ của đa số dân chúng.
Và cũng sẽ khó có sự thay đổi nếu ta vẫn đổ lỗi cho
một Lịch Sử chung chung và mơ hồ nào đó, nếu vẫn tự dối mình đằng sau cái công
thức “sự lựa chọn của Lịch Sử” (cụ thể hơn, ví dụ như: “lịch sử đã chọn Hồ Chí
Minh chứ không chọn Phan Châu Trinh”), bởi cái công thức đó ngăn không cho
chúng ta thấy rằng chính chúng ta đã và đang lựa chọn số phận của chúng ta, rằng
chính chúng ta đang làm nên Lịch Sử, sau khi mà lịch sử đã làm nên chúng ta.
Nghĩa là, chúng ta không thể lựa chọn quá khứ, nhưng chính chúng ta là người
quyết định hiện tại và tương lai của mình.
Người Đức đã không lảng tránh trách nhiệm bằng cách
đổ lỗi cho Hitler và cho Marx, họ nhận trách nhiệm về quá khứ và tự nhận lấy
trách nhiệm quyết định hiện tại và tương lai cho chính họ. Người Đức không nói
“Lịch sử đã chọn Hitler” hay “Lịch sử đã chọn Marx”. Họ phân tích để hiểu vì
sao Hitler và Marx đã được lựa chọn trong những bối cảnh cụ thể của lịch sử (chẳng
hạn Hannah Arendt đã viết ba tập sách để phân tích các nguồn gốc chính trị, xã
hội, kinh tế, lịch sử, văn hóa... đã dẫn đến sự hình thành của chế độ Hitler và
chế độ Staline). Người Đức vẫn nghiên cứu về Marx, vẫn dạy Marx trong các trường
đại học, nhưng họ đã từ bỏ mô hình được xây dựng dựa trên các ý tưởng ban đầu của
Marx, mô hình Đông Đức. Họ phân tích để hiểu, để tránh các sai lầm trong quá khứ
và để lựa chọn cho họ một tương lai khác chứ không để cho các bóng ma của quá
khứ định đoạt cuộc sống của họ. Họ tự quyết định tương lai của mình.
Hiện tại của Việt Nam đang là như vậy, còn tương
lai, chúng ta sẽ để mặc nó cho một nhóm người quyết định hay chính chúng ta sẽ
quyết định chọn một tương lai khác với cái hiện tại đầy nhức nhối này?
Nice, 1/9/2015
Nguyễn
Thị Từ Huy
----------------------------
Thu, 08/27/2015 - 21:27 — nguyenthituhuy
Liên quan đến câu hỏi
của bài trước, «Chúng ta còn tiếp
tục sống như thế này đến bao giờ ? », là một câu hỏi khác, mà có lẽ
rất nhiều người trong chúng ta đã và đang tự đặt ra cho chính mình và đặt ra
cho những người xung quanh, cho toàn bộ xã hội, trong bối cảnh bi đát hiện
nay: « Vậy phải làm gì ? ». Hoặc cũng có thể đặt câu hỏi này
theo cách khác : « Vậy phải sống như thế nào ? ».
No comments:
Post a Comment