06:58:am 25/08/15
Ảnh Hoàng Phủ Ngọc Tường – bại liệt – đến dự đám
tang bà mẹ vợ. (Ảnh lấy trên Facebook)
Hôm 26.7.2015, một độc giả có email là
dien.nguyen44@… đã đưa lên diễn đàn hình Hoàng Phủ Ngọc Tường với lời ghi chú vắn
gọn:
“Giờ đây HP Ngọc Tường bị bại liệt. Y phải ngồi
xe lăn, và cõi chết đã gần kề, Hoàng Phủ Ngọc Tường không thể chối tội y đã giết
đồng bào với chính lương tâm của y, y cũng không thể quên được những hình ảnh
bi thảm của cuộc tàn sát ghê rợn, đẫm máu do chính y gây ra cho đồng bào Huế
trong Tết Mậu Thân 1968. Trong phần đời ngắn còn lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường phải
sống những ngày đêm u ám, sợ hãi, y sợ hồn ma, bóng quỉ, y sợ oan hồn của những
kẻ đã bị y thảm sát gần 40 năm trước.”
Email vắn gọn này lại bắt chúng ta nhớ đến những thảm
cảnh mà đồng bào ở Đà Nẵng và Huế đã phải chịu trong các cuộc bạo loạn tại miền
Trung trước 1975, nhất là trong Tết Mậu Thân. Để đối phó với công luận, nhóm
người gây ra những tai họa này thường dùng Vọng Ngữ để chạy tội, coi Vọng Ngữ
như một pháp môn của đạo Phật, có thể đưa tới “giải thoát”! Hoàng Phủ
Ngọc Tường cũng tin như vậy, nhưng chạy trời không khỏi nắng.
BỊ
CIA ĐẨY VÀO CON ĐƯỜNG CÙNG
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9.9.1937 tại Huế,
nhưng quê ở Triệu Phong, Quảng Trị. Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn (ban Việt
– Hán) năm 1960, về dạy ở trường Quốc Học Huế từ 1960 đến 1966. Khi CIA phát động
phong trào Phật Giáo để lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm và đưa quân vào miền Nam,
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những người đã tham gia rất tích cực.
Sau khi ông Diệm bị giết, một số các nhà lãnh đạo Phật
Giáo tưởng rằng thời vận của Phật Giáo đã đến, nên đã phát động một phong trào
đấu tranh bạo động để cướp chính quyền và hình thành một chính phủ do Phật giáo
lãnh đạo, trong đó Phât giáo là quốc giáo và các tăng sĩ là quốc sư, giống như
dưới thời Lý Trần. Phong trào này đã lên tới cao điểm vào năm 1966 khi Phật
Giáo đã cướp được chính quyền tại Đà Nẵng và Huế. Nhưng thực tế không dễ dàng
như vậy.
Phong trào Phật Giáo tuy được trang bị bằng lòng
cuồng tín tôn giáo và sự hận thù Thiên Chúa Giáo rất cao, nhưng lại thiếu tổ chức,
thiếu lãnh đạo và thiếu kinh nghiệm… nên đã trúng kế của CIA!
Đọc lại các tài liệu ghi lại các biến loạn do các
phong trào Phật Giáo gây ra lúc đó ở Sài Gòn, Đà Nẵng và Huế (trong đó có Bạch
Thư của Hòa Thượng Tâm Châu), ai cũng thấy kinh hoàng. Đợi khi lòng cuồng tín
tôn giáo lên đến cao độ và đưa tới biến loạn, và khi các đặc công cộng sản nằm
vùng ẩn nấp trong các chùa ở Đà Nẵng như chùa An Long do Thích Minh Tuấn trụ
trì và chùa Phổ Quang của Thích Từ Mẫn.., xuất đầu lộ diện dưới danh nghĩa “Lực
Lượng Thanh Niên Phật Tử Cứu Quốc” và “Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử”…,
Mỹ mới bật đèn xanh cho hai Tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Ngọc Loan dẹp tan.
Ngày 20.5.1966, từ Huế Thượng Tọa Thích Trí Quang
lên tiếng kêu gọi Tổng Thống Johnson can thiệp và đòi Tướng Kỳ phải từ chức
ngay lập tức. “Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng” yêu cầu Thủy Quân Lục Chiến
Mỹ ra tay, nếu không họ sẽ phá phi trường Đà Nẵng. “Quân đoàn Cách mạng Vạn Hạnh” đã
được thành lập do Thích Minh Chiếu làm Tư lệnh và đặt Tổng hành dinh tại chùa
Phổ Đà ở số 340 đường Phan Châu Trinh Đà Nẵng. Nơi đây đã trở thành nhà tù giam
giữ, tra tấn và thủ tiêu những viên chức chính quyền, quân đội, công giáo,
VNQDĐ… không theo “Cách Mạng”. Trưa 26.5.1966 đoàn biểu tình đã đốt cơ quan
USIS, Phòng Thông tin và Thư viện Hoa Kỳ tại Huế, tiêu hủy khoảng 5.000 quyển
sách. Ngày 1.6.1966, đoàn biểu tình đập phá Tòa Lãnh sự Mỹ tại Huế. Họ rải truyền
đơn đòi đưa Thích Trí Quang lên làm quốc trưởng và Trần Quang Thuận làm thủ
tướng. Nhưng Tổng Thống Johnson tuyên bố ủng hộ Quân Lực VNCH và yêu cầu chính
phủ và các tổ chức đấu tranh chấm dứt các cuộc xô xát “để chống Cộng và thực hiện
dân chủ.”
Ngày 23.5.1966, khi Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân ly
khai do Ðại Úy Nguyễn Thừa Du chỉ huy, rút ra khỏi Chùa Tỉnh Hội ở Đà Nẵng và
trở về với QLVNCH, phong trào Phật Giáo đấu tranh cướp chính quyền bắt đầu suy
yếu rồi tan rã dần.
Hiện nay, đã có hàng trăm bài và tài liệu ghi lại
các biến cố nói trên, nhưng nhìn chung, chúng ta thấy vụ Đại tá Đàm Quang Yêu,
Tư lệnh Biệt khu Quảng-Đà và Trung Đoàn Trưởng Trung đoàn 51 Bộ binh tuyên bố
ly khai khỏi chính quyền trung ương và cho Ðại Úy Nguyễn Thừa Du dẫn Tiểu Ðoàn
11 Biệt Ðộng vào đóng ở Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng để bảo vệ Phật Giáo, vụ một
số đơn vị thuộc Sư Đoàm 1 và Sư Đoàn 2 tuyên bố ly khai; vụ tướng Lewis Walt,
Tư lệnh TQLC Hoa Kỳ tại Vùng I, ngăn chận không cho không quân VNCH oanh kích
quân ly khai ở Đà Nẵng… đều là những hành động có tính toán.
Khi tình hình đã chín muồi, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ,
Chủ tịch UBHPTƯ, lên các đài truyền thanh và truyền hình tuyên bố rằng cộng sản
đã xâm nhập vào các phong trào tranh đấu ở miền Trung và cho biết sẽ dùng võ lực
để tái lập an ninh tại Đà Nẵng. Ngày 14.5.1966, các tàu vận tải của Hoa Kỳ đã
đưa 40 xe tăng và thiết vận xa đến Đà Nẵng. Ngày 15.5.1966, chính phủ gởi 5 tiểu
đoàn Nhảy dù đến Quân đoàn I tăng cường cho Thủy Quân Lục Chiến. Chỉ trong một
giờ, quân Nhảy dù đã tái chiếm Đài phát thanh Đà Nẵng…
Tất cả những biến cố nói trên đều do Tướng Lewis
Walt, Tư lệnh TQLC Hoa Kỳ tại Vùng I đạo diễn. Mục tiêu của kịch bản này là biến
phong trào đấu tranh Phật Giáo thành một phong trào bạo loạn và khủng bố, rồi
viện lý do đó dẹp tan mà không bị dư luận quốc nội và quốc tế phản đối. Nói
cách khác, CIA đã bày mưu để đẩy Phật Giáo Ấn Quang vào con đường cùng.
Bị thất bại một cách thê thảm, Giáo Hội Phật Giáo Ấn
Quang đã công khai đi theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Các cán bộ nồng cốt của
nhóm này đã bỏ thành phố đi vào chiến khu theo Việt Cộng, chẳng hạn
như Hoàng Phủ Ngọc Tường (dạy học), Hoàng Phủ Ngọc Phan (SV
Y Khoa), Nguyễn Đắc Xuân (SV Đại Học Sư Phạm), Trần Quang
Long (SV Đại Học Sư Phạm), Lê Minh Trường (Sinh Viên Mỹ Thuật),
Huỳnh Sơn Trà (SV Y Khoa), Nguyễn Văn Sơ (SV Đại Học Sư Phạm), Ngô
Yên Thi (SV Văn Khoa), Trần Bá Chữ (SV Đại Học Sư Phạm), Nguyễn
Thị Đoan Trinh (sinh viên Dược)… v.v. Đa số còn lại bị cơ quan an ninh
VNCH bắt giữ, một số ẩn trốn trong quần chúng.
TỪ TỘI
ÁC NÀY ĐẾN TỘI ÁC KHÁC
Báo chí và sách vở đã viết quá nhiều về những tội ác
mà đảng CSVN đã gây ra trong biến cố Tết Mậu Thân năm 1968, đặc biệt là các
thành phần thuộc Giáo Hội Ấn Quang đã bỏ vào chiến khu năm 1966 nay trở lại để
sát hại đồng bào, trong đó có 4 tên được chú ý nhất là Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân và Nguyễn Thị Đoan Trinh.
Có lẽ cuốn sách tóm lược đầy đủ hơn cả về vụ thảm
sát Tết Mậu Thân ở Huế là cuốn “The Vietcong Massacre at Hue” (Cuộc thảm
sát của Việt Cộng ở Huế) của bà Bác Sĩ Elje Vannema xuất bản năm 1976. Bà là
người có mặt ở Huế khi biến cố xẩy ra. Lời tường thuật của các nhân chứng khác,
Việt Nam cũng như ngoại quốc, cũng đã giúp chúng ta thấy rõ hơn sự dã man của
cuộc thàm sát này.
Theo tài liệu, khi Cộng quân tấn công vào Huế, có
đem các đại đội đặc công, võ trang tuyên truyền và các toán an ninh. Hoạt động
về an ninh được đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Minh, Phụ tá Bộ Tư Lệnh
Quân Khu kiêm Trưởng Ban An Ninh Quân Khu. Trụ sở chính của Ban An Ninh được
đặt tại Chùa Từ Đàm. Chỉ huy các toán an ninh là Tống Hoàng
Nguyên và Nguyễn Đình Bảy (tự là Bảy Khiêm) thuộc Khu Ủy Trị
Thiên. Tồng Hoàng Nguyên đã giao cho Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng
Phủ Ngọc Tường phụ trách khu Gia Hội.
Nguyễn Đắc Xuân thành lập “Đoàn Quân Nhân Sư Đoàn
1 ly khai” và “Đoàn Nghĩa Binh Cảnh Sát” để dụ các quân nhân và
cảnh sát VNCH ra trình diện, rồi sau đó đưa đi thủ tiêu.
Trường Trung Học Gia Hội của Dòng Mai Khôi (Phú
Xuân) được dùng làm nơi giam giữ và xét xử các thành phần bị coi là Việt gian
hay phản động. Theo bà Bác sĩ Elje Vannema, các phiên tòa ở đây đều do Hoàng
Phủ Ngọc Tường chủ tọa.
Bà Elje Vannema là người Hà Lan, sinh năm 1932 và tốt
nghiệp y khoa tại trường McGill University Medical School ở Canada năm 1962. Bà
đã dến hoạt động y tế ở Huế từ 1965 đến 1968, có mặt tại Huế trong biến cố Tết
Mậu Thân, nên đã tường thuật khá đầy đủ trong cuốn “The Viet Cong Massacre
at Hue” dày 212 trang, xuất bản năm 1976. Bà đã ghi lại các việc
làm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân như sau:
“Dân chúng hiện diện khá đông tại các phiên tòa ở Tu
viện, ở Gia Hội bên kia cầu và ở trong thành. Tòa án ở Tu viện do Hoàng Phủ
Ngọc Tường chủ trì. Anh này tốt nghiệp đại học Huế và là cựu lãnh tụ sinh viên
trong Ủy Ban Phật Giáo chống chính quyền trước đây. Cầm đầu ở Gia Hội là
Nguyễn Ðắc Xuân, trước kia là một liên lạc viên cộng sản nay đột nhiên lại xuất
hiện. Tòa trong thành do hai sinh viên Nguyễn Ðọc và Nguyễn Thị Ðoan (Trinh)
điều khiển. Các phiên tòa vang lên những lời đe dọa với khẩu hiệu tuyên truyền,
kết tội, qui chụp. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do mình bị bắt.
Nhưng tất cả đều bị kết tội, một số bị tử hình tức khắc…”
Bà Elje Vannema cho biết đã kiểm kê được qua 22 mồ tập
thể với số nạn nhân bị Cộng quân giết là 2.326 người. Riêng tại trường Gia Hội,
nơi Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân điều hành, có 203 người bị giết.
Người đi bắt và bắn chết là tên Linh (Diệu Linh), người Quảng Ngãi làm nghề thầy
bói, khoác áo Việt Nam Quốc Dân Đảng Thừa Thiên.
THẦN
KHẨU BUỘC XÁC PHÀM!
Từ 1963 đến nay, những người thuộc giáo phái Phật
Giáo Ấn Quang, dù theo Việt Cộng hay chống Cộng, dù ở trong hay ngoài nước,
cũng thường coi VỌNG NGỮ như con đường giải thoát. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thế.
Nguyễn Đắc Xuân khẳng định rằng trong suốt thời gian
xảy ra biến cố Mậu Thân, Hoàng Phủ Ngọc Tường ở chiến khu tại địa đạo Khe Trái
trong vùng núi phía tây huyện Hương Trà để làm công việc của Mặt Trận Giải
Phóng, cho nên chuyện Hoàng Phủ Ngọc Tường tham gia tàn sát là điều bịa đặt. Còn
Hoàng Phủ Ngọc Tường nói:
“Không hiểu sao đến giờ vẫn có những kẻ xấu miệng
cứ tìm cách buộc chặt tôi vào “vụ” Mậu Thân Huế. Đúng Mậu Thân đã trở thành một
bi kịch đời tôi! Tôi đành xem họ như những kẻ vu khống bẩn thỉu, thế thôi!”
(Báo Công An Nhân Dân online: Sự thật về 3 nhân vật
bị kẻ thù gọi là “đồ tể khát máu”)
Nhưng tục ngữ Việt Nam có câu “Thần khẩu buộc xác
phàm”, chính lời tuyên bố của chính Hoàng Phủ Ngọc Tường sau đó lại trở thành bằng
chứng buộc tội anh ta. Trong cuộc phỏng vấn của đài PBS năm 1982, Hoàng Phủ
Ngọc Tường nói:
“Nói riêng về những người bị giết thì trong số đó
tất nhiên có một số là do du kích cách mạng. Khi chúng tôi vào nhà để gọi
họ ra thì họ bắn trả đến cùng; họ bắn đến độ có những chiến sĩ của chúng tôi đã
bị thương; khi đó chúng tôi phải bắn trả khiến những người đó bị chết tại
chỗ. Trong trường hợp đó có một viên Phó tỉnh trưởng của Huế…”
Trong cuộc phỏng vấn của phóng viên Burchett và đoàn
làm phim Việt Nam Thiên Sử Truyền Hình tại Huế năm 1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường
xác nhận chính mình là chứng nhân của biến cố Tết Mậu Thân tại Huế 1968, nhưng
cho rằng thủ phạm vụ tàn sát đó là Mỹ – Ngụy chứ không phải Đảng CSVN! Xin mời
quý vị lắng nghe:
Hỏi: Ông có thể mô tả biến cố nổi dậy ở Huế, đặc biệt liên quan đến vụ
thảm sát. Ở đây. Xin đề nghị ông trả lời cho biết những gì xảy ra bấy giờ ở Huế,
có những vụ trả thù, đàn áp?
Hoàng
Phủ Ngọc Tường: “Ông muốn nói đến vụ thảm sát Mậu Thân ở Huế?
Đó là một chiến công vĩ đại của nhân dân Huế. Nhưng nhân dân Huế đã phải trả một
giá đắt cho chiến thắng này. Đó là là một sự trả thù chưa từng thấy của Mỹ
và ngụy sau đó. Vì thế nhân dân Huế đã phải trả giá đắt nhất so với
các thành phố khác của chúng tôi. Cũng chỉ vì ở đây người Mỹ đã chịu sự tổn thất
nặng nề về sinh mạng, về vật chất và chính trị tại Huế…
“Bởi vì tội ác do Mỹ tạo ra được toàn thể thế giới
bên ngoài quan tâm, chúng chuyển tất cả tội ác của chúng và đổ lỗi cho những
người làm cách mạng chống lại nhân dân của họ. Tôi ám chỉ việc chúng đã dùng vụ
thảm sát như một bửu bối đặc biệt để bôi nhọ cách mạng Việt Nam trong cuộc hòa
đàm Paris.
“Đây là điều tôi muốn nêu rõ vì tôi biết như là
một chứng nhân.”
Những lời tuyên bố này cho thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường
có mặt tại Huế trong Tết Mậu Thân, nhưng cũng như các thành phần đấu tranh khác
của Giáo Hội Ấn Quang, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đổ tội cho Mỹ – Ngụy để “giải
thoát” cho mình. Nhưng Kinh Pháp Cú có dạy: “Khi nghiệp ác chưa thành thục,
kẻ ác cho là vui, đến khi nghiệp ác thành thục rồi kẻ ác mới hay là ác.”
Có lẽ lúc này “nghiệp ác thành thục rồi”, nên
người ta đã tìm thấy trong thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường những câu:
Những chiều Bến Ngự giăng mưa
Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi
Tôi ra mở cửa đón người
Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang
(Địa chỉ buồn)
Hay:
Nợ người một khối u sầu
Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi
(Về chơi với cỏ).
Không phải đợi đến “ngày sau luân hồi” đâu, chính
trong kiếp này, Hoàng Phủ Ngọc Tường, những kẻ tôn thờ Vọng Ngữ trong Giáo Hội Ấn
Quang và chính Giáo Hội này cũng đã phải trả rồi.
Ngày 30.7.2015
© Lữ Giang
© Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment