Peter Drysdale, EAF
Việt
Khôi chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Posted on Jul 28, 2015
Chuyến thăm ngay trước khi kết thúc nhiệm kỳ của Tổng
Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) Nguyễn Phú Trọng tới Washington theo lời
mời của Tổng thống Obama đánh dấu một bước quan trọng trong cuộc hành trình lâu
năm hướng tới sự thắt chặt quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Chuyến thăm đánh dấu
kỷ niệm 20 năm bình thường hoá quan hệ ngoại giao và dỡ bỏ một số lệnh cấm vận
sau khi kết thúc chiến tranh Đông Dương cách đây gần 20 năm trước. Nhìn chung lại,
đã phải mất một thế hệ để hai nước chính thức hàn gắn vết thương chiến tranh và
những vết sẹo thất bại của Hoa Kỳ khi Bắc Việt đã toàn thắng trước miền Nam Việt
Nam.
Buổi tiếp đón ông Trọng, ông Hoàng Bình Quân – ủy
viên Ban Trung ương và Chủ tịch Ban Đối ngoại Đảng Cộng sản Việt Nam – viết
trên tờ Washington Post rằng chuyến thăm biểu hiện sự tôn trọng của Hoa Kỳ đối
với chính thể của Việt Nam. Bằng lời mời một Tổng Bí thư ĐCSVN, một vị trí mà
không hề có vị trí tương xứng trong hệ thống chính phủ Hoa Kỳ, Washington cuối
cùng cũng đã mở rộng sự tôn trọng đối với các lựa chọn chính trị của Việt Nam.
Hệ thống chính trị của Việt Nam có thể khác nhiều với hệ thống chính trị của
Hoa Kỳ, nhưng giờ đây Việt Nam cũng đang tìm kiếm hướng đi trên cùng một đường
như Hoa Kỳ – đó là kinh tế thị trường, bảo hộ đầu tư nước ngoài và cũng có những
tham vọng vì hoà bình và ổn định trên chính trường quốc tế. Ông Quân còn viết
thêm: “Những đồng minh mạnh – cũng như những người bạn tốt – không nhất thiết
phải là những người giống nhau nhất mà là những người có thể chấp nhận nhau và
đối thoại thẳng thắn về sự khác biệt đó.”
Mọi người ăn mừng, ở Hà Nội cũng như ở Washington,
chủ yếu tập trung vào mối quan hệ đã tiến xa như thế nào và nó sẽ đi tới đâu,
chứ không quan tâm nhiều về tiến trình dài đằng đẵng để có được ngày hôm nay.
Tiến xa hơn khỏi cái mà Tổng thống Obama gọi là “khó
khăn lịch sử” giữa hai nước đã mất thật nhiều thời gian, đối ngược lại hoàn
toàn với sự chóng vánh của quá trình làm hòa của hai nước trong chuyến thăm
này. Chỉ trong một thập kỷ, Hoa Kỳ có những đồng minh sâu sắc với các sức mạnh
của phe Trục cũ như Đức, Nhật, sau khi hai nước này thất bại trong Đệ nhị Thế
chiến. Việt Nam thì khác. Nước này đã làm tan nát trái tim Hoa Kỳ và chia rẽ nội
bộ Hoa Kỳ một cách sâu sắc. Việt Nam đã bị khép tội và ném trải buồng giam do
Hoa Kỳ lập ra nếu không có một nổ lực đáng kể nào nhằm bình thường hoá quan hệ
giữa hai nước. Đối ngược với quan hệ thời hậu chiến tranh giữa Hoa Kỳ đối với
Việt Nam là trường hợp của Úc. Úc cũng bị dính vào chiến tranh Việt Nam như nhiều
nước khác. Sự tham gia và thất bại của nước này cũng đã bị chia rẽ nội bộ sâu sắc.
Tuy nhiên, Úc đã mở quan hệ bang giao với Việt Nam ngay từ 1975, nhanh chóng
tháo bỏ rào cản kinh tế; hoan hỉ khi Việt Nam gia nhập ASEAN vào 1995 và Liên
hiệp An ninh năm 1998 – cho dù Úc là một trong những nước đón tiếp nhiều nhất
thuyền nhân từ Việt Nam.
Có lẽ không cần phải kể ra nhiều những bằng chứng để
chứng minh cho quan hệ kinh tế mạnh mẽ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ như thế nào nữa.
Năm ngoái, Murray Hieber chỉ
ra rằng giao dịch giữa hai nước đạt 36 tỉ USD, tăng 12 lần so với năm 2001
khi hai nước lần đầu kí hiệp định tự do thương mại. Hai quốc gia đã đồng ý hợp
tác trong chín lĩnh vực, trong đó có quan hệ chính trị, kinh tế, an ninh, nhân
quyền và các vấn đề môi trường.
Có hai lý do chính dẫn tới sự thành công này.
Thứ nhất, cho dù bị cấm vận và bị tàn phá bởi chiến
tranh, Việt Nam vẫn khởi sắc hơn nhiều người ở Hoa Kỳ phỏng đoán sau những đổi
mới từ những năm 1980. Có lẽ Hoa Kỳ cũng chẳng thèm để ý tới Việt Nam nếu như
Việt Nam không gia nhập ASEAN và phát triển những mối quan hệ tốt đẹp với các
láng giềng như Trung Quốc, Nhật Bản, Úc và các quốc gia khác trên thế giới, như
châu Âu chẳng hạn. Việt Nam dần dần trở thành một quốc gia có mức thu nhập
trung bình thấp và càng ngày càng tham gia sâu sắc hơn vào nền kinh tế thế giới.
Thứ hai, cả hai quốc gia đều có những quan ngại về sự
trỗi dậy của Trung Quốc.
Giờ đây cả hai nước này đều đang tham gia vào ký kết
hiệp định TPP với sự tham gia của 12 nước tất cả. Nếu hiệp định này thành công,
Việt Nam sẽ có được những ưu tiên hơn hẳn các quốc gia khác trong khu vực châu
Á, ví dụ như tại thị trường dệt may của Hoa Kỳ. Tiến triển về việc dỡ bỏ lệnh cấm
vận vũ khí sẽ còn tùy thuộc vào những cải thiện trong vấn đề nhân quyền tại Việt
Nam. Tất nhiên Hoa Kỳ sẽ không bỏ qua vấn đề này mà sẽ còn đưa ra các cuộc đàm
phán với Việt Nam cho tới khi nào bằng lòng mới thôi. Hoa Kỳ muốn các đối thủ của
họ phải giống họ nhiều hơn, như Đức hay Nhật chẳng hạn. Nếu Việt Nam cũng được
như vậy thì nỗi đau thất bại trước đây mới được xóa nhòa, những giọt máu và mất
mát mới phần nào được vơi đi.
Tuy nhiên, David Brown kết
luận, mô hình chính trị tại Việt Nam không giống như Hoa Kỳ hay các quốc
gia dân chủ đa đảng khác, cũng chẳng phải Trung Quốc: đó chính là Singapore, một
quốc gia nhỏ bé đã thực hiện mô hình «độc tài hiệu quả» một cách thành công. Dù
cho đó là một giai đoạn trong sự phát triển chính trị, hay đó là điểm đến cuối
cùng, thì Việt Nam vẫn còn còn đường dài trước khi đến đích.
©
2007–2015 Bản tóm lược tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info
No comments:
Post a Comment