Carl Gershman, Chủ tịch National Endowment for Democracy
Lê
Duy Nam chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Posted on Jul 27, 2015
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 của Ấn Độ vào năm 1997,
Trung tâm Bghiên cứu các Xã hội đang Phát triển (CSDS) có trụ sở tại New Delhi
đã tiến hành một cuộc khảo sát tầm quốc gia đánh giá quan điểm chung đối với nền
dân chủ Ấn Độ. Các kết quả đã bác bỏ niềm tin phổ biến rằng người dân Ấn Độ đã
mất niềm tin vào hệ thống dân chủ của đất nước. Ngược lại, giám đốc của CSDS
Ashis Nandy đã viết, “Ngày nay, các hệ thống dân chủ được hưởng tính hợp pháp lớn
hơn so với quá khứ. Người nghèo và người bị bóc lột bảo vệ dân chủ mạnh mẽ hơn
các tầng lớp lãnh đạo.” Tính hấp dẫn của dân chủ, ông cho biết, nhờ một phần rất
lớn vào niềm tin của Ấn Độ rằng tính toàn diện của nó cung cấp cách tốt nhất để
đối phó với sự đa dạng sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, và khu vực đáng kinh ngạc của
nước này. Người nghèo đặc biệt coi trọng dân chủ, theo Nandy, bởi vì họ tin rằng
“lá phiếu của mình có trọng lượng” và họ dường như thích thú thực hiện nhượng
quyền của mình bất chấp các nhà hảo tâm chuyên nghiệp trong các tầng lớp giàu
có hơn – những người có những ý tưởng riêng của họ về những gì người nghèo cần.
Trong khi cuộc khảo sát của CSDS và bình luận của
Nandy chỉ tập trung tại Ấn Độ, chúng chứa một thông điệp quan trọng về tầm quan
trọng của nền dân chủ cho nhân dân ở các nước đang phát triển khác trên thế giới.
Tại thời điểm khảo sát ý kiến của Ấn Độ xuất hiện, Lý Quang Diệu và một số nhà
lãnh đạo chính trị khác đã thúc đẩy lập luận rằng dân chủ là một hệ thống
phương Tây không phù hợp với văn hóa châu Á. Luận điểm “giá trị châu Á” này đã
nhận được sự lắng nghe tôn trọng trong giới lãnh đạo ở châu Á, Bộ Ngoại giao và
các ấn phẩm phương Tây khác. Uy tín của nó đã được củng cố thêm bởi sức mạnh của
các nền kinh tế Đông Á mà dường như cho thấy rằng các hệ thống dựa trên đảng
chiếm ưu thế, các lãnh đạo vô trách nhiệm, và các tập đoàn lớn được chống lưng
bởi nhà nước đưa ra một hướng nhanh chóng để phát triển cho các nước không thuộc
phương Tây. Luận điểm này nhanh chóng hết thời với cuộc khủng hoảng tài chính
châu Á năm 1997, nguyên nhân chính trong đó là sự thiếu vắng của nền tảng trách
nhiệm dân chủ và minh bạch trong các cơ quan chính của chính phủ và tài chính.
Đột nhiên, các quan điểm đưa ra bởi Nandy và những người khởi xướng khác về dân
chủ ở các nước đang phát triển có sức mạnh mới và được lắng nghe rộng rãi hơn.
Dân chủ có thể thấy là cũng nhiều liên quan đến châu Á và các nước đang phát
triển khác như ở phương Tây, không chỉ một hệ thống cầm quyền hiệu quả mà còn
là cách để đạt được một cuộc sống tốt hơn cho những người bình thường.
Ý tưởng cho rằng người dân bình thường ở các nước
đang phát triển được hưởng lợi từ dân chủ và, do đó, mong muốn nó và sẵn sàng
hy sinh để đạt được nó vẫn chưa được hiểu hoặc được chấp nhận rộng rãi trong
các nền dân chủ đã thành lập của phương Tây. Mặc dù chúng ta đang sống trong một
thời kỳ toàn cầu hóa, hầu hết mọi người trong các nền dân chủ đã thành lập ít
tiếp xúc với các nước đang phát triển. Những gì họ đọc trên báo chí hoặc xem
trên truyền hình thường là thảm họa loại này hay loại khác, dẫn đến quan điểm
cho rằng dân chủ có thể không “phù hợp” với nhiều quốc gia. Nhà kinh tế học và
triết học Amartya Sen có sẵn một câu trả lời cho quan điểm này: “Một đất nước
tưởng rằng là không phù hợp cho dân chủ,” ông viết trong một bài viết tựa đề
“Dân chủ là một giá trị phổ quát” (Journal of Democracy, Tháng Bảy, 1999), “dĩ
nhiên là có chứ, nó phải trở thành phù hợp thông qua dân chủ.
Làm thế nào dân chủ có thể giúp một quốc gia trở
thành “phù hợp” là một quá trình phức tạp và tinh tế. Hãy để tôi đề nghị bảy
cách mà nền dân chủ đóng góp vào quá trình này.
Đầu tiên là bằng cách cung cấp các phương tiện mà
các công dân có thể buộc các chính phủ chịu trách nhiệm về các chính sách và sự
liêm chính. Nhà chính trị học Larry Diamond đã viết rằng: “Sự quản lý vụ lợi,
tham nhũng, lãng phí, lạm dụng, chuyên chế, không đủ năng lực là nguyên nhân sụp
đổ của sự phát triển.” Đơn giản là không có cách nào để kiểm soát hoặc loại trừ
tham nhũng, nếu mọi người không được tiếp cận với các thể chế cơ bản của dân chủ:
một nền truyền thông tự do có thể vạch trần tham nhũng, một nền tư pháp độc lập
có thể trừng phạt thủ phạm; một hệ thống bầu cử tự do và công bằng có thể giữ
các nhà lãnh đạo chính trị có trách nhiệm và, khi thích hợp, loại kẻ bất lương
ra. Điều này không có nghĩa là dân chủ sẽ tự động giảm tham nhũng hoặc tạo ra sự
quản lý tốt. Sự quản lý có trách nhiệm đòi hỏi quyết tâm chính trị, thể chế hiệu
quả, cán bộ chuyên môn và những công dân am hiểu, cảnh giác và tích cực. Nhưng
nếu thiếu sự dân chủ thì những điều này không thể và sự vắng mặt của những hạn
chế chính trị và pháp lý chắc chắn sẽ dẫn đến hành vi lạm dụng và tham nhũng.
Cách thứ hai là thúc đẩy phát triển kinh tế và thịnh
vượng. Trong quá khứ, sự thông thái thường cho rằng sự phát triển và thịnh vượng
khuyến khích dân chủ, khi những công dân giàu có hơn trở thành học thức hơn và
có khả năng tham gia vào chính trị và chính phủ. Thêm các phân tích gần đây cho
thấy rằng tác động nhân quả cũng hoạt động theo cách khác ngược lại – dân chủ
thúc đẩy phát triển. Đây là một kết luận chính của Báo cáo Phát triển Con người
năm 2002, xuất bản bởi Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc, trong đó ghi rằng
“sự quản lý dân chủ có thể kích hoạt một chu kỳ đạo đức của sự phát triển – khi
tự do chính trị cho phép người dân thúc đẩy các chính sách mở rộng các cơ hội
kinh tế và xã hội và khi các cuộc tranh luận mở giúp các cộng đồng định hình
các ưu tiên của mình.”
Trong thực tế, nghiên cứu đã chỉ ra rằng dân chủ
không chỉ giúp người dân ảnh hưởng đến chính sách của chính phủ mà còn hỗ trợ sự
phát triển theo những cách cơ bản hơn bằng việc thúc đẩy hoạt động kinh tế sản
xuất. Richard Roll và John R. Talbott, trong một nghiên cứu được công bố trên tạp
chí Journal of Democracy (tháng Bảy năm 2003), kết luận rằng hơn 80 phần trăm sự
thay đổi toàn quốc về bình quân tăng trưởng thu nhập đầu người giữa các nước
đang phát triển (sử dụng số liệu cho 1995-1999 ) có thể được giải thích bởi các
yếu tố thông qua những khía cạnh của nền dân chủ, trong đó có sự hiện diện mạnh
mẽ của quyền sở hữu, các quyền chính trị, quyền tự do dân sự và tự do báo chí.
Họ cũng nhận thấy rằng việc tăng đột ngột trong thu nhập bình quân đầu người ở
các nước đang phát triển có xu hướng theo các sự kiện dân chủ (chẳng hạn như việc
loại bỏ một nhà độc tài) và các sự kiện phản dân có xu hướng dẫn tới một sự giảm
sút trong tăng trưởng kinh tế.
Các biến góp phần vào tăng trưởng kinh tế chia sẻ
hai đặc điểm. Đầu tiên là chúng đại diện cho thể chế và chính sách thiết lập một
quy tắc pháp luật được thực thi với sự công bằng và công lý. Điều này khuyến
khích các thành phần kinh tế làm việc, chấp nhận rủi ro, tiết kiệm và tham gia
vào các hình thức khác của hoạt động kinh tế sản xuất. Đặc điểm thứ hai là các
biến cấu thành hình thức của hành động tập thể tại cấp độ chính quyền – thực
thi hợp đồng; bảo vệ các quyền chính trị và tài sản cùng với việc thu thuế có
thể được sử dụng cho các dịch vụ công cộng. Hành động đó tạo ra các thành phần
quan trọng trong cách quản lý dân chủ, điều này giải thích tại sao các xã hội
đang phát triển sẽ đạt được rất nhiều thứ bằng cách thiết lập các hệ thống dân
chủ.
Cách thứ ba nền dân chủ giúp người dân tại các xã hội
đang phát triển là cho họ phương tiện để tác động đến các hành động của chính
phủ của mình trong việc chống lại những ảnh hưởng của thảm họa kinh tế và xã hội.
Tới đây, chúng tôi đặc biệt biết ơn công việc của Amartya Sen, người đã chỉ ra
rằng “trong lịch sử khủng khiếp của các nạn đói trên thế giới, chưa từng có nạn
đói đáng kể từng xảy ra ở bất kỳ quốc gia độc lập và dân chủ nào với một nền
báo chí tương đối tự do.” Lý do là dân chủ, nâng cao vị thế của người dân ở cấp
cơ sở, cung cấp cho các chính phủ động cơ chính trị để bảo vệ họ chống lại nạn
đói hoặc có biện pháp phòng ngừa để giảm bớt sự khốn khổ của người dân nếu có một
nguy cơ thiếu hụt lương thực. Chính vì nạn đói hay các loại thiên tai sẽ gây tử
vong cho người dân, không có biện pháp bảo vệ sẽ gây nguy hiểm cho bất kỳ chính
phủ trong một tình huống mà người dân ở trong vị trí để ghi nhận góc nhìn của họ.
Sức mạnh bảo vệ dân chủ, Sen chỉ ra, có thể không được nhớ tới khi mọi việc diễn
ra suôn sẻ, nhưng nó trở nên cực kỳ quan trọng với các bộ phận dễ bị tổn thương
nhất trong dân số khi một bóng mờ tai họa có thể phát sinh từ tình hình kinh tế
thay đổi hay các sai lầm chính sách tích lũy.
Cách thứ tư dân chủ giúp phát triển xã hội trở thành
“phù hợp” là kích thích các chính phủ tăng cường sức khỏe, giáo dục, và hạnh
phúc nói chung của người dân. Một nghiên cứu được tiến hành bởi Patricio Navia
và Thomas D. Zweifel (Journal of Democracy, tháng Bảy năm 2003) cho thấy rằng kể
từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở các nước dân chủ
(45.9 trên 1.000 ca sinh) thấp hơn so với các nước thiếu dân chủ đáng kể (50.5
). Navia và Zweifel kết luận rằng “khi sự phát triển như nhau, trung bình năm
bé trên một ngàn trẻ sơ sinh sẽ chỉ chết vô ích vì nơi chúng sinh ra không thuộc
nền dân chủ.” Ngay cả chế độ độc tài nhân từ, họ cũng thấy, luôn luôn tốt hơn bởi
sự dân chủ, với lý do đơn giản rằng các chính phủ dân chủ tự nhiên phản ứng
nhanh hơn so với chế độ độc tài về nhu cầu của người dân và do đó sẵn sàng để đầu
tư vào các dịch vụ xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của các công dân.
Cách thứ năm dân chủ làm phong phú thêm cuộc sống của
người dân ở các xã hội đang phát triển là thúc đẩy hòa bình, cả giữa các quốc
gia và trong chính mỗi nước. Ý tưởng cho rằng dân chủ là một lực lượng lập lại
hòa bình có ảnh hưởng rất nhiều từ công việc của RJ Rummel, tác phẩm của ông là
nhiều tập của Hiểu biết về xung đột và chiến tranh (xuất bản từ
1975-1981), đã kết luận rằng: “Bạo lực không xảy ra giữa các xã hội tự do.”
Immanuel Kant đã đi đến kết luận tương tự gần hai thế kỷ trước đó trong bài tiểu
luận “Hòa bình vĩnh cửu,” ông lưu ý rằng nếu “sự đồng ý của công dân là cần thiết
để xác định có hay không chiến tranh, sẽ tự nhiên khi họ xem xét tất cả những
tai họa của nó trước khi dấn thân vào một trò chơi nguy hiểm.” Nhạy bén cao hơn
với cái giá của chiến tranh chỉ là một trong những lý do mà dân chủ thúc đẩy
hòa bình. James Lee Ray, trong một bài viết mang tựa đề “Con đường Dân chủ tới
Hòa bình” (Journal of Democracy, tháng Tư năm 1997), cũng đã nhấn mạnh năng lực
của dân chủ để điều tiết các mối quan hệ hàng ngày giữa các quốc gia, do đó
ngăn ngừa các cuộc khủng hoảng bằng cách phát triển đến độ chúng phải được giải
quyết một cách hòa bình. Chúng ta cũng đã nhìn thấy từ trường hợp của Ấn Độ rằng
dân chủ là một hệ thống toàn diện cung cấp một cách dung hòa những khác biệt
dân tộc và tôn giáo – một nguồn gốc chính của xung đột trong thế giới đương đại.
Cách thứ sáu dân chủ giúp người dân tại các xã hội
phát triển là tạo môi trường cho họ học hỏi lẫn nhau thông qua các cuộc thảo luận
công khai, tạo điều kiện cho các định nghĩa của nhu cầu, ưu tiên, và nghĩa vụ.
Sen gọi đây là vai trò xây dựng của nền dân chủ khi nó liên quan đến sự hình
thành các giá trị và sự hình thành “các lựa chọn có hiểu biết và đã được cân nhắc.”
Thông qua thảo luận công khai, ông lưu ý, người dân các bang của Ấn Độ là
Kerala và Tamil Nadu đã hiểu và tiếp thu những ảnh hưởng có hại của mức sinh
cao đối với cộng đồng và đối với cuộc sống của phụ nữ trẻ. Kết quả là Kerala hiện
nay có mức sinh tương tự như của Anh và Pháp và thấp hơn so với Trung Quốc, một
kết quả đạt được mà không cần ép buộc. Người dân làm chủ để tiếp cận giải quyết
các vấn đề xã hội thông qua việc hình thành các giá trị mới là thiết yếu hiệu
quả hơn rất nhiều so với giải pháp áp đặt hoặc ủy quyền của chính phủ hoặc của
các cơ quan viện trợ quốc tế. Nhưng hành động có tính xây dựng như vậy không thể
xảy ra nếu thiếu dân chủ.
Lý do thứ bảy và cuối cùng, dân chủ quan trọng đối với
người dân ở các nước đang phát triển là làm phong phú thêm cuộc sống của họ như
những công dân và nhìn nhận phẩm giá con người của họ. Sen gọi đây là giá trị
thực chất của nền dân chủ. Người dân đánh giá cao sự tham gia chính trị trong đời
sống của cộng đồng vì lợi ích chung, không phải vì nó tiến một mục đích thực tế.
Bị từ chối việc tham gia đó, Sen viết, là “một sự tước đoạt lớn” vì “thực hiện
các quyền chính trị là một phần quan trọng trong cuộc sống tốt đẹp của các cá
nhân như sinh vật xã hội.” Như chúng ta đã thấy, tự do phục vụ nhiều mục đích
vì nó tạo điều kiện cho người dân bảo vệ lợi ích của mình, mở rộng tiềm năng của
họ đồng thời tạo ra các cơ hội mới cho bản thân, gia đình và cộng đồng của họ.
Đây là những điều có nghĩa “mưu cầu hạnh phúc.” Nhưng tự do của con người không
đòi hỏi một phương tiện bào chữa. Tự nó đã quan trọng rồi.
Trên khắp các nước đang phát triển có những người và
tổ chức sẵn sàng hy sinh to lớn trong việc theo đuổi dân chủ, nhân quyền, và tự
do chính trị. Sự can đảm và sự kiên trì của các nhà hoạt động dân chủ ở châu
Phi, các nhà hoạt động nữ quyền ở Trung Đông, và nhà bảo vệ nhân quyền ở Miến
Điện và các chế độ chuyên quyền châu Á khác đã bác bỏ quan điểm cho rằng dân chủ
là một hệ thống phương Tây mà không hấp dẫn với người dân ở các nước đang phát
triển. Trên thực tế, điều ngược lại mới đúng. Không chỉ dân chủ cần thiết và được
mong chờ bởi người dân ở các nước đang phát triển mà sự cống hiến của họ cho nền
dân chủ làm xấu hổ công dân của các nền dân chủ thành lập, những người thường xuyên
xem dân chủ là dĩ nhiên và đã trở nên phần nào mệt mỏi với việc đánh giá về lợi
ích của dân chủ với cuộc sống của mình. Không ngạc nhiên rằng nền dân chủ của
những người ủng hộ nhiệt thành nhất ngày hôm nay nên đến từ các nước mà dân chủ
được bảo vệ thấp nhất. Có lẽ điều này sẽ nhắc nhở những người đủ may mắn sống
trong các nền dân chủ được bảo vệ để đánh giá những gì họ có và cũng để giúp đỡ
những người khác – sống nơi tự do được bảo vệ kém hơn – thực hiện nguyện vọng của
mình cho một tương lai dân chủ.
Tóm tắt:
Dân chủ quan trọng với tất cả các quốc gia vì những
lợi ích mà nó mang lại. Đầu tiên là có thể buộc các chính phủ chịu trách nhiệm
về các chính sách và sự liêm chính. Thứ hai là thúc đẩy phát triển kinh tế và
thịnh vượng. Thứ ba là tác động đến các hành động của chính phủ trong việc chống
lại những ảnh hưởng của thảm họa kinh tế và xã hội. Thứ tư là kích thích các
chính phủ tăng cường sức khỏe, giáo dục, và hạnh phúc nói chung của người dân.
Thứ năm là thúc đẩy hòa bình. Thứ sáu là tạo môi trường cho người học hỏi lẫn
nhau thông qua các cuộc thảo luận công khai, tạo điều kiện cho các định nghĩa của
nhu cầu, ưu tiên, và nghĩa vụ. Thứ bảy và cuối cùng là làm phong phú thêm cuộc
sống của những công dân và nhìn nhận phẩm giá con người của họ.
©
2007–2015 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info
No comments:
Post a Comment