Lê
Ngọc Thống - Soha News
27/07/2015 15:58
Sự
nôn nóng cùng dã tâm “nuốt trọn” Biển Đông đã khiến Bắc Kinh mù quáng và vô
hình trung tự tay “tháo xích” cho đối thủ truyền kiếp đầy sức mạnh – Nhật Bản.
Luật an ninh mới của Nhật Bản đã chứng tỏ Lực lượng
phòng vệ nước này giờ đây có tính chất và tầm vóc của một cường quốc quân sự.
Họ, quân đội Nhật Bản, có thể tác chiến bất cứ nơi
đâu, với bất cứ ai khi an ninh của Nhật Bản, của đồng minh, bạn bè của Nhật Bản
bị tấn công, đe dọa…
Được coi như một “mũi tên đã lắp vào nỏ” thì Sách trắng
quốc phòng Nhật Bản năm 2015 đã chỉ rõ “đích” mà mũi tên hướng đến.
Trung Quốc lo ngại, phản đối quyết liệt khi cho rằng,
đây là hành động trỗi dậy của “chủ nghĩa quân phiệt Nhật”. Nhưng ngược lại, khu
vực châu Á-Thái Bình Dương lại không có thái độ như vậy với sự trỗi dậy, thay đổi
của nước Nhật.
Nước cờ chiến lược
sai lầm của Trung Quốc
1.
Lấy nước sau dùng làm nước đi đầu, tạo điều kiện cho Nhật Bản trỗi dậy
Kể từ năm 2010, khi GDP của Trung Quốc chính thức vượt
Nhật Bản cũng là lúc tranh chấp quần đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư)
cũng được Bắc Kinh đẩy lên nấc thang cuối của cuộc xung đột.
Thực ra, quần đảo này, về địa chính trị, quân sự và
kinh tế đối với Trung Quốc không đến mức vì nó mà sẵn sàng xung đột, chiến
tranh với liên minh hùng mạnh Mỹ-Nhật Bản.
Nhưng chủ nghĩa dân tộc như một con dao 2 lưỡi, quá
lạm dụng thì như “cưỡi trên lưng hổ” cho bất cứ chính phủ nào.
Trung Quốc đã trở thành nạn nhân của nó, vì thế,
chuyến “ra khơi” đầu tiên để thâu tóm Biển Đông lại bị “mắc cạn” tại quần đảo
Senkaku/Điếu Ngư.
Đây là một sai lầm tai hại của Trung Quốc mà từ đó,
làm nên chiến thắng vang dội của đảng Dân chủ Tự do (LPD), đưa ông Shinzo Abe –
một người được Mỹ ủng hộ – lên làm Thủ tướng Nhật Bản.
Vụ tranh chấp với Bắc Kinh về quần đảo Senkaku/Điếu
Ngư vừa qua, Nhật Bản đã rút ra 2 bài học giá trị từ chính Trung Quốc.
Một là, một quốc gia giàu có chỉ là nhất thời, mạnh
về quân sự mới là vĩnh viễn. Giàu mà không mạnh thì bị đe dọa hay trấn lột bất
cứ lúc nào. Chỉ có sức mạnh quân sự của quốc gia mới bảo đảm tính ổn định, bền
vững và phát triển của nền kinh tế.
Hai là, mối hận thù dân tộc của Trung Quốc với Nhật
Bản chưa bao giờ mờ phai. Nhật Bản luôn bị Trung Quốc coi là mối “quốc nhục”
100 năm chưa trả hận.
Đảng LPD cầm quyền của ông Shinzo Abe thừa nhận thức
sâu sắc 2 bài học này và quyết tâm tái vũ trang, xây dựng một sức mạnh quân sự
đủ sức răn đe Trung Quốc, đề phòng liên minh Mỹ-Nhật không có giá trị.
Thực hiện quyết tâm này, về mặt kỹ thuật thì không mấy
khó khăn với Nhật Bản khi nước này có một nền công nghiệp tiên tiến hiện đại bậc
nhất thế giới.
Tàu ngầm, máy bay, tàu chiến, tên lửa… nói chung là
những thứ vũ khí trang bị hiện đại, Nhật Bản muốn là họ tự sản xuất chế tạo.
Tuy nhiên, khó khăn nhất với chính phủ của ông Abe
là cơ chế, cụ thể là “điều 9 hiến pháp” đã trói buộc, mà muốn xóa bỏ nó thì tác
động của bên ngoài mang yếu tố quyết định.
Trung Quốc đã làm rất tốt vai trò tác động này khi
biến mình là nguyên nhân duy nhất, nguy hiểm nhất buộc Nhật Bản phải lựa chọn.
Chỉ chưa đầy 2 năm với từng bước đi cụ thể, chính phủ
của ông Shinzo Abe đã có những cách giải thích về “điều 9 Hiến pháp”, tiến tới
xóa bỏ bằng Luật an ninh mới.
Không rõ Trung Quốc đi nước cờ sai lầm ở Senkaku/Điếu
Ngư hay là Nhật Bản, chỉ biết Mỹ đã lợi dụng Senkaku/Điếu Ngư để “cởi trói”
Tokyo, cho phép Nhật Bản tham gia sâu, trực tiếp vào cấu trúc an ninh Tây Thái
Bình Dương.
Nhưng, điều mà Trung Quốc không muốn, không bao giờ
muốn là đối đầu với Nhật Bản tại Biển Đông bất cứ hình thức nào, thì nó đã và
đang đến.
Biển Đông, như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng cảnh
báo: “Chỉ cần một hành động thiếu trách nhiệm, gây xung đột sẽ làm gián
đoạn dòng hàng hóa khổng lồ này và nhiều nền kinh tế không chỉ trong khu vực mà
cả thế giới đều phải gánh chịu hậu quả khôn lường.”
Trong khi đó, sự trùng hợp “lạnh sống lưng” giữa
Trung Quốc và Nhật Bản là tuyến hàng hải trên Biển Đông đều là “đường sinh mạng”.
Cho nên, dễ hiểu là, Biển Đông chứ không phải là
Senkaku/Điếu Ngư mới là “chiến trường chính” của cuộc đối đầu Trung-Nhật vì
tính chiến lược sống còn của đôi bên trên đó.
Rõ ràng Trung Quốc đã đi sai nước cờ khi phải đối đầu
với một đối thủ mạnh, truyền kiếp quá sớm là Nhật Bản mà nguy cơ “bị loại khỏi
vòng bảng” đang ám ảnh bởi “lời nguyền từ Nhật Bản” không phải là điều không thể.
2.Từ
bỏ sách lược “giấu mình chờ thời”
Phải khẳng định chắc chắn dã tâm của Bắc Kinh muốn
chiếm trọn Biển Đông, biến Biển Đông thành “ao nhà” là trước sau như một, không
bao giờ thay đổi, không sớm thì muộn. Vấn đề là từng giai đoạn, bước đi thực hiện
chiến lược này ra sao mà thôi.
Chiến lược thâu tóm Biển Đông của Trung Quốc, đúng
ra phải là nước cờ cuối sau khi đã “đuổi” được Mỹ ra khỏi Đông Nam Á và
Tây-Thái Bình Dương.
Điều này vốn được thực hiện bằng “cuộc chiến địa
chính trị” mà thời gian đầu khi Trung Quốc đang theo đuổi chiến lược “giấu mình
chờ thời” (‘Tao guang yang hui’ Policy) của ông Đặng Tiểu Bình đã tỏ ra rất hiệu
quả.
Đáng tiếc, Trung Quốc bị cái tăng trưởng GDP liên tục
làm mờ mắt, ảo tưởng sức mạnh của mình và với truyền thống ngạo mạn, bành trướng,
Bắc Kinh cho rằng không cần “giấu mình”, muốn “ăn” ngay Biển Đông béo bở mà bất
chấp tất cả.
Hành động của Bắc Kinh trong các tuyên bố chủ quyền
phi lý, phi pháp và chuẩn bị quân sự để đe dọa sử dụng sức mạnh… đã bộc lộ mục
tiêu, ý đồ nguy hiểm nhất quán của họ.
Động thái này đã khiến các quốc gia trong khu vực,
bao gồm cả Việt Nam, Nhật Bản… và kể cả Mỹ phản kháng với một tinh thần “ngay
và luôn”.
Như vậy, vội vàng từ bỏ sách lược “giấu mình chờ thời”,
Trung Quốc đã phạm sai lầm lớn về xây dựng thế trận.
Thay vì để Biển Đông tạm thời là một vùng đệm chiến
lược, mở rộng vòng vây thì Bắc Kinh lại biến nó thành “vùng nóng”, có thể trở
thành vùng chiến sự bất cứ lúc nào.
Chính Trung Quốc tự thu hẹp không gian chiến lược của
mình.
Tại sao Trung Quốc phản
đối quyết liệt Nhật Bản tuần tra trên Biển Đông?
Thực ra, việc tuần tra trên biển, đại dương đề bảo đảm
an toàn, an ninh hàng hải là vấn đề thường xuyên, không có gì ghê gớm của các
cường quốc biển như Mỹ. Và tuần tra trên Biển Đông – một tuyến hàng hải rất
quan trọng của thế giới – cũng không ngoại lệ.
Tuy nhiên, Trung Quốc lại ngang nhiên tuyên bố Biển
Đông là chủ quyền của họ nên không ai được quyền đưa máy bay, tàu chiến vào
vùng này.
Hành động “tuần tra” trên vùng biển mà Trung Quốc gọi
là “chủ quyền” bị Bắc Kinh “bóp méo” là thách thức, tuyên chiến.
Đó là lý do vì sao Trung Quốc và Mỹ trở nên căng thẳng
quyết liệt đến mức mà báo chí Trung Quốc cho rằng “chiến tranh với Mỹ là không
thể tránh khỏi…” khi Mỹ đem máy bay, tàu chiến tuần tra trên Biển Đông.
Và đến khi cả Nhật Bản tuyên bố sẽ “tuần tra” trên
Biển Đông với sự hậu thuẫn của Philipines khi dùng căn cứ Subic tiếp tế hậu cần
cho Hải quân Nhật Bản thì Trung Quốc “giãy lên như đỉa phải vôi”.
Như vậy, khi Mỹ-Nhật Bản bắt tay “tuần tra” trên Biển
Đông thì cán cân so sánh lực lượng ở khu vực Tây Thái Bình Dương mà cụ thể là
trên biển Hoa Đông và Biển Đông đã hoàn toàn nghiêng về Mỹ bởi Nhật Bản tham
gia vào thế trận với tư cách của một cường quốc kinh tế và quân sự.
Không hồ nghi gì nữa, Tokyo đã sẵn sàng cùng Mỹ tham
chiến tại Biển Đông nếu như Trung Quốc có ý đồ chiếm Biển Đông, biến thành “ao
nhà”, tức là ngăn chặn, phong tỏa tuyến hàng hải sống còn của Nhật Bản trên
vùng biển quốc tế này và đe dọa an ninh Mỹ…
Trước việc “tuần tra” của Mỹ và Nhật Bản trên Biển
Đông, Trung Quốc chỉ có thể hoặc là bằng vũ lực, xua đuổi hay đánh đuổi lực lượng
tuần tra của Mỹ-Nhật Bản ra khỏi Biển Đông hoặc là tôn trọng luật chơi chung.
Vậy, Trung Quốc chọn lựa thế nào đây?
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả Lê Ngọc
Thống, Kỹ sư chỉ huy-Hoa tiêu, nguyên sỹ quan Tham mưu Hải quân.
No comments:
Post a Comment