Về Một Quãng Đời Trịnh Công Sơn (phần III)
Nguyễn Thanh Ty
14/04/2007
http://www.vietnamreview.com/modules.php?name=News&file=article&sid=6158
Nhạc Phẩm Đầu Tiên Được Ấn Hành:
Mấy ngày sau Sơn về, mặt mày bơ phờ, hốc hác. Tôi kể chuyện ông già Thống đi tìm. Sơn nói sẽ xin lỗi sau. Xong, Sơn ngủ vùi suốt ngày hôm đó.
Hôm sau, Sơn vui vẻ kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện về nhạc phẩm "Chiều Một Mình Qua Phố". Sơn kể:
- Mình bán cho cha Duy Khánh. Chả trả có ba ngàn đồng bạc. Mình nài thêm, chả nói: "Nhạc Phạm Duy là đắt nhứt mà cũng chỉ tới năm ngàn là cùng, ông là nhạc sĩ mới, giá vậy là cao lắm rồi". Sơn tặc lưỡi nói tiếp:
- Thôi cũng được, nhưng tiếc một điều là chả làm hư bản nhạc của mình. Mình bán đứt bản quyền rồi đâu còn ý kiến chi được!
Tôi thắc mắc:
- Hư là hư làm sao?
- Nhạc của mình thuộc loại êm, nhẹ, diễn tả nỗi buồn của những ngày lang thang trên phố vắng, đìu hiu, quạnh quẽ, mà chả cứ rống lên như bò rống!
Sơn giả điệu bộ và giọng Duy Khánh, lấy tay nắm lấy da cổ họng giựt giựt miệng rống lên "Chiều một mình qua phố... ố...ố...ố..." Tôi không sao nín cười được. Nhân đó, Sơn giải nghĩa cho tôi nghe về việc in ấn, tác quyền, phát hành, gom tiền... rất nhiều giai đoạn nhiêu khê. Tác giả một nhạc phẩm hay một tiểu thuyết không thể nào tự mình làm được các việc đó, nên bị các nhà xuất bản bắt chẹt, đành phải bán bản quyền cho họ. Bấy giờ tôi mới vỡ ra. Lâu nay tôi cứ ngỡ các ông văn sĩ, nhạc sĩ có sách, có nhạc được in ra, đem bán khắp nơi, chắc hẳn là giàu lắm. Này nhé, cứ tính nhẩm thì thấy ngay: một bản nhạc giá 7$ x một triệu bản = 7 triệu đồng. Triệu phú rồi còn gì! Té ra, sự thật, ông nhạc sĩ nhà mình ôm có ba ngàn đồng bạc đi ăn nhậu, nhảy đầm với đám bạn mấy ngày hết sạch! Còn phía nhà xuất bản thì sao? Ông Duy Khánh của ta đem in ra chỉ có 1.500 bản, gởi các đại lý khắp nước bán dùm, họ ăn hoa hồng 35%. Gần cả nửa năm sau chưa gom hết tiền về.
Dịp này, Sơn cũng kể cho tôi nghe về hai người bạn ở Sài Gòn mà Sơn thường về ở chung, đi ăn, đi nhảy với nhau. Đó là Trịnh Cung và Đinh Cường.
Đến giờ phút này tôi vẫn chưa có dịp gặp và biết Đinh Cường. (Trừ những tấm hình trên Net). Trịnh Cung thì tôi thấy mặt một lần khi ông ta ghé thăm Sơn tại Bảo Lộc, nơi phòng chúng tôi đang ở. Khoảng đầu năm 1965 thì phải! Hình ảnh của 2 ông Trịnh thật là tương phản. Ông Trịnh nhạc sĩ thì xuề xòa, giản dị trong bộ đồ, áo kaki vàng bỏ vô quần tergal, với đôi giầy Ba-Ta màu nâu muôn thuở. (Sau này có may thêm hai áo sơ mi, một nâu, một trắng bằng vải Nil France) Dạo ấy Sơn có biệt danh do chúng tôi đặt là "Chàng nghệ sĩ nhứt y nhứt quởn". Có lẽ một năm Sơn mới đi hớt tóc một lần, tôi nghĩ vậy, vì không bao giờ thấy Sơn có đầu tóc mới. Vẫn mái tóc thưa, mềm chạy dài xuống gáy. Hàng râu mép hung hung nâu. Không phải râu, cũng không phải lông. Khi dài thì Sơn lấy kéo cắt bớt. Hàng râu cằm lại càng khiêm nhường. Từ sợi nọ sang sợi kia có thể mắc võng được. Tôi thường đùa với Sơn như vậy.
Còn ông Trịnh họa sĩ thì rất đỏm dáng trong bộ âu phục thời trang. Áo veston xẻ hông, cà vạt, giầy da bóng láng. Ông có bộ râu quai nón rất rậm, che kín gần hết khuôn mặt, chỉ chừa một khoảng nhỏ từ trán xuống mũi.
Lần thứ hai tôi gặp lại ông là tháng 6 năm 1967. Tổng động viên, tôi vào Thủ Đức. Lúc ấy ông đang mang lon Thiếu Úy, làm huấn luyện viên. Lần thứ ba, giữa năm 1970, tôi gặp lại cả hai ông Trịnh tại phòng triễn lãm tranh được tổ chức trong ngôi biệt thự Văn Hóa Pháp, đường Yersin Nha Trang. Lần ấy, Sơn không nhìn thấy tôi hay không còn nhận ra tôi, tôi không biết. Nhưng lúc ấy Sơn đang bận rộn bắt tay người này, cười nói với người kia. Cả một đám đông đang quây xung quanh. Tôi không tiện và cũng không thể len vào để nói mấy câu nhìn bạn. Sơn vẫn xuề xòa trong bộ âu phục thường. Ông họa sĩ vẫn đóng khung còm lê, cà vạt. Tối hôm đó nằm mơ, tôi thấy Sơn đến thăm tôi tại căn phòng có cửa sổ ngó ra con đường đất đỏ, trong ngôi nhà của bà Trần Thị Phi và hai chúng tôi đến Câu Lạc Bộ Lâm Đồng uống cà phê. Nhưng sương chiều cứ là là bay, che khuất khuôn mặt Sơn. Tôi cố nhìn nhưng vẫn không thấy rõ nét.
Trở lại câu chuyện "Chiều Một Mình Qua Phố". Sơn hỏi tôi:
- Có nghe ông Lợi nói gì về tôi không?
- Không biết! Nhưng ông đi lâu quá, tôi e cũng đã đến tai ông ta rồi.
- Làm sao bây giờ? Sơn có vẻ hơi lo. Tôi trấn an:
- Không sao đâu! Chiều nay ông lên Ty, cười cầu tài một phát. Nói vài lời xin lỗi rồi tặng ổng bản nhạc là xong ngay.
Sơn thở phào nhẹ nhỏm. Sơn rút trong cặp ra hai bản nhạc, ký tặng ông Lợi một bản, tôi một bản. Bản đặc biệt in trên giấy láng, hai lớp. Hình bìa màu nâu, vẽ chàng nghệ sĩ tay trái xách đàn, tay phải vắt áo khoác trên vai, đang lầm lũi xuống con đường dốc. Hình bìa này chắc không phải do ông Cường hoặc ông Cung vẽ. Nét vẽ chân phương không lập dị như thường thấy của hai ông. Sơn ký cả họ lẫn tên và chữ lót dài từ đầu này đến đầu kia của bản nhạc theo chiều đứng. Cái gạch ngang chữ T trên đầu kéo dài che hết ba chữ Trịnh Công Sơn. Không có hình con cá như ông Cường nói. Tôi làm thầy bói nói mò:
- Chữ ký ông đẹp. Tiếc thay cái gạch dài quá, che hết cuộc đời của ông, e rằng không được tốt!
Sơn cười:
- Thôi cha! Bày đặt coi tướng số, tử vi hả?
Chiều hôm đó, từ Ty về, Sơn hớn hở khoe với tôi:
- Lúc mới vô Ty, mấy nhân viên văn phòng ái ngại nhìn tôi, chắc thế nào cũng bị ông Lợi quạt một trận tơi bời vì tội bỏ nhiệm sở. Tôi cũng hơi lo. Nhưng lúc gặp ổng trong văn phòng riêng, tôi xìa bản nhạc ra trước và nói mấy câu phân bua lý do vắng mặt cùng lời xin lỗi. Ổng cầm bản nhạc, chăm chú xem, không nói gì.
Lúc đó tôi hơi yên tâm. Cuối cùng ông ta nói:
- Cám ơn anh bản nhạc. Nhưng từ rày về sau đừng bỏ trường nữa. Tôi nghiệp cho ông Thống. Và tôi cũng khó đối xử với các nhân viên khác. Về lãnh vực âm nhạc, mong anh thành công nhiều hơn.
Cô Nữ Sinh Tên Ngà, Tiếng Kèn Đồng và Lời Buồn Thánh:
Khoảng đầu tháng tư năm 1965, chúng tôi đau buồn tiễn biệt người bạn trẻ Nguyễn Văn Ba về bên kia thế giới. Căn nhà chỉ còn ba người. Nguyễn Hảo Tâm ở một mình để được yên tĩnh học, mong lấy nốt chứng chỉ Văn khoa cuối cùng.
Ba là người ngoan đạo. Mỗi buổi sáng, đúng năm giờ, dứt hồi chuông đầu là anh đã ra khỏi nhà để đến nhà thờ dự lễ nhứt. Trong khi chúng tôi còn quấn kỹ trong chăn. Rất chăm chỉ, rất đều đặn, anh không bỏ sót một ngày, dù mưa hay bão.
Hôm anh về Sài Gòn để thăm gia đình, Việt Cộng đắp mô ở đoạn đường đèo Madagui. Trên chiếc xe đò Minh Tâm, tám chỗ ngồi, có một cha xứ ở Tân Phát cùng đi. Không một ai dám xuống xe để gỡ mô. Cha xứ nóng lòng về Sài Gòn gấp, không thể chờ quân đội đến phá mô như mọi bận, nên Cha tự tay xuống gỡ. Mô chỉ là một đống đất hoặc vài tảng đá. Có khi là một thân cây chắn giữa đường, trên phủ cành lá um tùm. Bên dưới gài lựu đạn hoặc mìn. Có khi chỉ là nghi trang, mục đích làm trở ngại giao thông, gây khó khăn cho dân chúng đi lại làm ăn mà thôi. Lần này mô rất sơ sài, chỉ dăm ba cục đá, một ít đất, vài nhánh cây phủ lên trên. Trông không có vẻ gì ghê rợn như mọi lần. Chừng năm, mười phút dọn dẹp là xe có thể lưu thông được. Thấy Cha Xứ xuống xe gỡ mô, Ba cản lại:
- Cha cứ ngồi trong xe. Mình con xuống gỡ là được rồi!Ba kéo gần hết các nhánh cây ra khỏi mô. Thấy không động tịnh gì. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Nãy giờ cứ lên ruột. Tài xế nổ máy xe, chuẩn bị lăn bánh. Ầm! một quả lựu đạn nội hóa phát nổ. Ba vật ngửa ra, chết liền tại chỗ. Cả xe bàng hoàng, khủng khiếp. Không một ai nhúc nhích. Mấy phút sau, cha xứ và vài hành khách rụt rè xuống xe, lại gần Ba, khiêng anh về. Xe chạy ngược lại Bảo Lộc.
Khi hay tin, chúng tôi sững sốt, nghẹn ngào. Vội vã đến thăm anh tại nhà thương Bảo Lộc. Anh nằm trong nhà xác. Thần thái như đang ngủ. Thi thể không một vết thương. Nhân viên y tế cho biết chỉ có một mảnh duy nhất trúng ngay tim. Năm ấy anh mới có hai mươi bốn tuổi, tuổi vừa mới biết yêu. Tình yêu mới chớm nở với người đẹp Bùi Thị Lan, nữ thư ký trong Ty. Một cái chết tức tửi, oan uổng, phi lý.
Sau cái chết của Nguyễn Văn Ba, Sơn đâm rét, không dám về Sài Gòn hàng tuần nữa. Trước đó, cứ trưa thứ sáu, sau khi tan trường, Sơn đi thẳng ra bến xe, lấy vé về Sài Gòn. Xe nhỏ Minh Tâm, chỉ bốn tiếng đồng hồ là Sơn đã "tiếu ngạo" ở thành phố hoa lệ. Mười hai giờ trưa Chúa Nhật, Sơn lại lên xe đò, đánh một giấc. Năm giờ chiều đã có mặt tại quán cà phê Ngọc Trang.
Những ngày bó gối nằm nhà, Sơn thường ngồi tư lự trước bàn viết duy nhất dành cho cả hai soạn bài, nhìn đăm đắm ra con đường đất đỏ. Mùa này bông lau nở trắng khắp nơi. Lau trắng dọc theo con đường dốc chạy dài từ trong buôn ra tới quốc lộ, băng ngang trước nhà chúng tôi. Buổi chiều, gió nồm thổi nhẹ từng cơn, lướt qua rừng lau, xô chúng ngã nghiêng xuống, rồi chúng bật dậy, tạo thành những âm thanh xào xạc nhè nhẹ, đều đều, buồn buồn. Chiều xuống dần. Những vạt nắng cuối cùng chiếu xiên trên những ngọn bông lau, lấp lánh sáng ngời. Gió lắng dần. Không gian trở nên im ắng, tĩnh mịch. Chợt tiếng kèn đồng xa xa vẳng lại, lúc nghe, lúc mất. Thật hắt hiu buồn. Đó là lúc cô nữ sinh hàng xóm, cô Ngà, đúng giờ đi lễ chiều. Chuông nhà thờ đang vang vang, dồn dập từng hồi, thúc dục con chiên đến giáo đường.
Thật đúng như tên đặt, da cô trắng ngà. Người mãnh mai với mái tóc thề chấm ngang vai, với khuôn mặt phảng phất nhiều nét như Đức mẹ Maria. Rất dịu dàng trong dáng đi. Mỗi buổi chiều cô đi lễ, đều đi ngang nhà chúng tôi. Hai tay ấp quyển Thánh Kinh trước ngực, đầu hơi cuối xuống, lặng lẽ, khoan thai bước. Đã bao lâu rồi? Cái hình ảnh rất đẹp ấy, cái màu áo dài trắng nổi bật trên nền đất đỏ, thấp thoáng ẩn hiện trong đám lau trắng, đã đi ngang nhà chúng tôi bao nhiêu chiều rồi mà chúng tôi không hề hay biết. Thật uổng phí! Chẳng là, cứ ba giờ chiều, chúng tôi đã túc trực quanh mấy cái bàn bi da để dành chỗ rồi chơi cho đến khi tắt điện mới mò về, thì làm sao có thì giờ để biết bên hàng xóm có người đẹp. Cái tên Ngà, mãi về sau, theo dõi, lắng nghe mấy đứa em cô gọi, mới biết.
Từ ngày Nguyễn Văn Ba chết, chúng tôi buồn vì thiếu vắng một người bạn, nên không còn hứng thú trong những buổi lang thang nữa. Ngồi nhà suốt một tuần nên mới phát hiện ra bên hàng dậu có người ngọc. Cả ba: Sơn, Tâm và tôi bắt đầu theo đuổi. Nhưng cả ba đều không thành công. Chúng tôi đều bỏ cuộc nửa chừng. Lý do: Tuổi trẻ ham chơi không để phí nhiều thì giờ để đeo đuổi. Thứ nữa là sĩ diện, quan trên trông xuống, người ta trông vào. Thầy giáo mà đi chọc gái thì ê càng quá.
Tuy nhiên, với tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ, Sơn đã thành công khi đưa tất cả những âm thanh mơ hồ của ngàn lau, của tiếng kèn đồng, tiếng chuông nhà thờ cùng dáng yểu điệu của cô Ngà, hòa nhập với gió chiều nhè nhẹ, để cấu thành chất liệu tuyệt vời tạo nên nhạc phẩm Lời Buồn Thánh.
Đôi Nét Về Trịnh Công Sơn:
Trịnh Công Sơn có vẻ người nghệ sĩ tự nhiên với mái tóc thưa, bồng bềnh, không chải chuốt hoặc cố làm dáng như các bạn văn nghệ của anh. Anh không bao giờ cạo mặt. Nếu ai nhìn kỹ khuôn mặt anh, sẽ thấy đầy những lông măng. Có lần tôi tò mò hỏi anh về chuyện hớt tóc, cạo râu, anh cho biết: Mỗi khi thấy lưỡi dao cạo bén ngót của ông thợ cạo là bắt rùng mình. Nghĩ ngay đến cảnh đang nằm ngửa cổ chờ cạo râu thì ông thợ cạo đưa một đường ngọt xớt, đứt lìa cuống họng. Sơn không nói vì sao lại có cái ám ảnh ghê rợn đó.
Sơn rất gầy, thường xuyên ở mức bốn mươi ký lô, mặc dù anh cao hơn tôi. Nhất là mỗi năm sắp đến kỳ nghỉ hè, đám giáo viên lại nhận được giấy gọi nhập ngũ, Sơn nhịn đói, thức khuya, uống cà phê đen, đậm, hút thuốc lá liên tục để xuống cân. Sau một tháng, Sơn rạc hẳn, trông rất tiều tụy. Thảm não đến tội nghiệp. Sơn chỉ còn ba mươi hai ký lô, dưới "pi nhê" để đi lính. Ngược lại với Sơn, chúng tôi ăn nhậu thả dàn cho thỏa những ngày còn ung dung tự tại. Sợ chó gì! Đi lính thì đi! Thiên hạ đi lính chết cả à? Sống chết phải có số chứ! Mới vừa đây thôi. Việt Cộng pháo kích vào quận, một trái hỏa tiển rơi nhằm nhà một cô giáo, trúng ngay chiếc giường, ba mẹ con đang ngủ, chết tan xác. Ông chồng nằm phòng bên cạnh lại không hề hấn gì. Chúng tôi cứ lập luận như vậy để tự an ủi chứ ai cũng thừa biết rằng "Xưa nay chinh chiến mấy ai về".
Ấy vậy mà gần đến ngày tựu trường, chúng tôi lại nhận được giấy hoãn dịch thêm được một năm. Lại có cớ để ăn mừng lớn. Nhậu một bữa quắc chỉ cần câu. Lần này Sơn mới dám mạnh dạn nhập cuộc. Lần lữa, chúng tôi thoát được hai niên khóa. Đến niên khóa thứ ba, năm 1967, tình hình chiến sự ngày càng ác liệt, tổn thất nhân mạng trầm trọng, Bộ Quốc Phòng vét một mẻ lớn. Đui, què, mẻ, sứt phải nhập ngũ ráo. Bộ Giáo Dục bó tay, không can thiệp được nữa. Đến nước này, biện pháp nhịn ăn để xuống cân, tăng độ cận thị không còn hiệu quả nữa. Sơn trốn lính. (Ông Liễu nói Sơn uống dấm là không đúng).
Sơn hút ống vố (pipe) thuốc Mỹ, pha trộn hai loại Half & Half và No #79 thơm không chịu được. Bên cạnh còn thêm Basto xanh. Thường trực trong nhà phải có mấy lố. Sơn uống cà phê đen pha bằng "phin" Inox, từng giọt, từng giọt quánh như keo, rất ít đường. Sơn chê chúng tôi uống cà phê như ăn chè. "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng". Tôi đang hút Pallmall. Thỉnh thoảng thay gu bằng Lucky Strike. Thấy Sơn hút tẩu, tôi ghiền mùi No 79. Tôi cũng tập tò hút ống vố, nhất là bắt chước cho giống nghệ sĩ. (Ông Liễu cũng ngậm ống vố) Một dịp về Sài Gòn du hí, tôi mò vào Eden, mua đủ bộ lệ gồm một ví da ba ngăn, một ngăn đựng ống vố, một ngăn đựng thuốc, một ngăn đựng que thông nòng và con dao xếp đặc biệt ba lưỡi. Dao này dùng nhồi thuốc, nạo tàn và xoi nòng. Mấy ngày đầu ráng tập ngậm, khổ sở vô cùng. Không biết nước miếng ở đâu mà cứ tuôn ra ào ào, chảy ròng ròng hai bên mép. Vừa lau xong, lại lau. Còn cái ống vố, có cảm tưởng nặng chừng cả ký lô. Nó kéo trì cái môi và cái hàm dưới lệch một bên làm khuôn mặt méo xẹo như người mắc phong. Thôi! Bỏ! Tiếp theo, tôi bắt chước để tóc dài bồng bềnh như mây khói. Nhưng hởi ôi! Tóc râu tôi thuộc loại rễ tre. Càng dài càng xỉa ra trông giống cái chổi xể. Soi gương, thấy giống thằng ăn cướp. Bộ tịch thầy giáo như vậy làm sao mà dạy học trò. Tôi đành từ bỏ cái mộng làm dáng nghệ sĩ.Bản tính Sơn hiền lành, điềm đạm, nói năng nhỏ nhẹ. Không giống bọn tôi. Lúc nào cũng ào ào, cười nói toe toét. Nhất là khi đã có vài ve vào thì khỏi nói. Trái lại, Sơn trầm tĩnh, chỉ ngồi cười. Rõ ràng đồng trang lứa mà Sơn đã chững chạc hơn chúng tôi nhiều. Nhưng Sơn hiền quá đến độ nhu nhược. Gần như hèn.
Nhớ lại hồi mới lên Bảo Lộc được vài ngày, Sơn, Trương Khắc Nhượng và tôi kéo nhau đi uống cà phê ở một cái quán cuối con dốc, cạnh bờ hồ (Quên tên quán). Quán có cô chủ rất xinh, nên mấy anh choai choai túc trực rất đông. Trời mưa lâm râm. Mới hơn bảy giờ mà đã tối mịt. Chúng tôi lựa một cái bàn trong góc tối để dễ ngắm nhìn cô chủ. Nhạc êm nhè nhẹ, xập xình. Cà phê từng ngụm nóng hổi, thơm phức. Vừa cảnh, vừa tình thật không gì thú cho bằng.
Đang khoan khoái thưởng thức cái thú cà phê, thuốc lá, bỗng từ bàn phía bên kia, một cậu choai choai độ 17 hay 18 tiến sang bàn chúng tôi, chỉ vào chàng thư sinh Trương Khắc Nhượng, ra lệnh:
- Mời anh ra ngoài sân cho tôi nói chuyện.
Tôi đá vào chân Nhượng dưới gầm bàn, ra hiệu đừng đi. Nhượng ú ớ:
- Tôi... tôi đâu có quen anh?
Tên kia sẵn giọng:
- Không cần quen hay không! Anh có ra không thì bảo?
Chúng tôi tái mặt. Rõ ràng chúng muốn gây sự đây mà. Rõ ràng ma cũ bắt nạt ma mới. Tôi đang nghĩ kế thoát thân. Quán không có cửa hông. Cửa sau ăn ra bếp. Phải chạy vòng qua chỗ cát xê, cô chủ đang ngồi, xuống bếp cũng kẹt vào đường cùng. Ngõ trước thì bọn nó cả chục đứa đang án ngữ. Không chừng bọn nó có dao nữa. Tiến thối lưỡng nan. Sơn bắt đầu run lập cập. Nhượng nói hết ra hơi. Tôi cố kéo dài thời gian tìm kế:
- Anh à! Chúng tôi vừa mới lên đây có mấy ngày, có quen ai đâu, đâu có chuyện gì để nói!
Hắn vẫn sấn sổ:
- Tôi không mời anh. Tôi muốn nói chuyện với thằng kia!
Nói xong, nó quay sang Nhượng, nắm lấy tay anh định lôi đi. Nhượng líu lưỡi:
- Ơ! Không!... không!
Hai bên đang dằng co, lôi kéo. Đột nhiên, như một cảnh trong phim cao bồi, từ trong góc tối phía bên kia, một thanh niên dong dỏng cao, vẻ đẹp trai thư sinh, áo sơ mi trắng dài tay, xăn lửng, bỏ trong quần, bước tới bàn chúng tôi, với giọng rõ ràng, chắc nịch:
- Các anh đừng sợ.
Quay sang tên kia, anh gằn giọng:
- Bọn mầy muốn gì thì gặp tao đây!
Tên kia bất ngờ hụt hẫng con mồi, bước nhanh ra cửa, tay ngoắc, miệng chửi thề:
- Đ. má! Mầy ngon hả? Ngon thì ra đây!
Vị cứu tinh chúng tôi sãi ba bước tới cửa, hai tay bám vào xà ngang, cùng lúc hai chân anh phóng một đạp như trời giáng vào ngực tên kia nhanh như chớp. Trong lúc không ngờ, tên kia ngã huỵch xuống đất, ôm ngực la bài hãi vừa chửi thề luôn miệng. Đồng bọn hơn chục đứa kéo ra vây chung quanh anh, vừa vung tay, vừa hò hét:
- Đánh chết mẹ nó đi! Chém chết cha nó đi!
Chúng tôi rụng rời tay chân. Cứu tinh chúng tôi phen này chắc phải bỏ mạng với chúng. Đám khách trong quán ngồi im thin thít. Không một ai dám hó hé. Cô chủ quán đến bàn chúng tôi hỏi thăm và an ủi:
- Mấy anh có vẻ lạ, hình như mới tới đây phải không? Cái đám du đãng này ở công trường Nông Sơn trốn ra mấy bữa nay. Đêm nào chúng cũng đến đây quậy phá mà không ai dám làm gì.
Cô đưa mắt nhìn ra cửa lo lắng:
- Đêm nay số xui tới phiên các anh và cả anh kia nữa.
Trong lúc ấy, ngoài cửa tiếng hò hét, tiếng chửi thề, càng lúc càng hung hãn. Chúng vây anh thanh niên vào giữa vòng tròn, nhưng không tên nào dám xông vô tấn công.
Chợt cô chủ quán la lên khe khẽ:
- Trời! Chúng có dao!
Bây giờ chúng tôi mới thấy rõ trong tay bọn chúng đứa nào cũng lăm lăm con dao. Làm sao đây? Chúng tôi nhìn nhau không biết phải làm cách nào để giúp sức người ơn, đành trơ mắt ếch nhìn anh một cách bất lực. Nhưng lạ thay, chàng thanh niên vẫn bình tĩnh, tay chống nạnh sườn, nhìn đám du đãng đang giương nanh, múa vuốt, không một chút sợ sệt. Sau một lúc hò hét thị oai để cướp tinh thần đối phương, chúng hè nhau áp vô một lượt định tấn công anh bằng đòn hội chợ. Nhưng nhanh hơn chúng trước mấy giây đồng hồ, ba phát súng nổ chát chúa vang lên trong đêm tối tĩnh mịch. Cả bọn bỏ chạy tán loạn, té bò lê, bò càng. Vừa chạy vừa la thất thanh:
- Nó có súng! Nó có súng!
Thì ra trong lúc chúng tôi lo lắng cho sự an nguy của anh, anh rất bình tĩnh đối phó với chúng. Chờ cho chúng thật sự tấn công, anh mới móc súng ra bắn ba phát chỉ thiên thị uy, cốt hù dọa chúng mà thôi. Khi mọi sự trở lại yên tĩnh, chúng tôi mời anh vào quán để cám ơn và mời anh một chầu. Anh vui vẻ ngồi vào bàn và tự giới thiệu:
- Tôi là Triệu. Thiếu úy Triệu. Đại đội tôi mới được tăng cường tới Bảo Lộc sáng nay để bảo vệ an ninh quận.
Anh quay sang hỏi thăm chúng tôi. Sau khi nghe chúng tôi lần lượt giới thiệu và cho biết là đang dạy học tại đây, cũng vừa mới tới được mấy ngày. Anh à lên một tiếng và xoay lưng ra phía sau, ngoắc tay một cái, lập tức có hai anh khác đang ngồi nhâm nhi cà phê trong góc vội chạy đến trông điệu bộ rất cung kính:
- Dạ ! Ông thầy! Ông thầy sai gì tụi em!
Triệu nói:- Hai anh về lấy chiếc Dodge tới đây để đưa mấy ông giáo về nhà cho an toàn!
Một anh nói:
- Khỏi cần hai người. Một mình em về lấy xe. Để thằng Xinh ở lại bảo vệ ông Thầy.
Chúng tôi lo ngại anh đi một mình nên đồng thanh:
- Anh coi chừng tụi nó trả thù.
Anh ta nháy mắt cười với chúng tôi, tay vỗ vỗ vào lưng và nói:
- Tui có cái này, đố cha tụi nó dám!
Hóa ra, Thiếu úy Triệu còn có hai vệ sĩ đi kèm mà chưa cần phải ra tay. Ngoài hai vệ sĩ to như hai ông hộ pháp ra còn có ba con chó lửa nữa thì tụi nhóc du đãng cả chục đứa ăn nhằm gì. Chúng tôi kết bạn với nhau từ đêm ấy. Hơn tháng sau, đại đội Triệu hành quân đi nơi khác, gấp rút, không kịp gặp nhau nói lời từ giã. (Không biết vị ân nhân này, bây giờ còn hay mất, tôi không hề gặp lại).
Đêm đó, Sơn nằm kể cho tôi nghe, thời gian ở Huế, anh làm huấn luyện viên nhu đạo cho Sở Hiến Binh Thừa Thiên. Sau một cơn bạo bệnh, anh quên hết các thế võ. Tôi nghe mà lòng hoài nghi, thắc mắc. Tôi cũng có học đôi chút về nhu đạo. Nhu đạo cốt lấy nhu thắng cương. Dùng lực người làm lực mình để chiến đấu, rất ít hao nội lực. Nếu vì bệnh hay lý do nào khác thì chỉ mất sức khỏe hay nội lực chứ làm sao mà quên hết các thế võ. Trừ khi mất trí nhớ. Nhưng thấy Sơn trong lúc còn đang sợ về chuyện vừa rồi, tôi không tiện hỏi lại. Sau đó cũng quên luôn. Nay, lại nghe ông Trịnh Cung nhắc chuyện Sơn tập nhu đạo với đứa em, bị cú choàng vai, phải nằm viện, thành ra ốm yếu. Mối nghi ngờ Sơn nói dối để tự che đậy mặc cảm nhút nhát, hèn yếu của mình lại vụt trở về trong ký ức.
Lại nhớ thêm một lần khác, năm 1962, lúc học ở Qui Nhơn. Con trai Bình Định rất ghét nam giáo sinh Huế. Vì trai Huế mã ngoài trông rất bảnh và sang trọng. Các em nữ sinh Qui Nhơn bỏ kép "lô can" của mình chạy theo "của ngoại". Hơn nữa, Qui Nhơn lúc bấy giờ chỉ có trường trung học Cường Để là lớn nhất, nhưng chỉ có đến lớp đệ nhị mà thôi. Học sinh Cường Để đồng phục quần kaki xanh, áo sơ mi trắng "póp pờ lin Ba Trái Đào", dép lốp bánh xe hơi làm sao địch lại với giáo sinh Sư phạm quần Tergal đen, áo sơ mi dài tay trắng Nyl France, cà vạt đen, đi giầy da bóng lộn. Trông oai và bảnh chọe lắm. Ái chà! Còn cái ông thợ may tiệm may Thích nữa chứ! Thật là tài! Không biết ông bắt được ở đâu cái "tuy dô" rằng giáo sinh sẽ có món học bổng 200 đồng. Ông liền điều đình với Ban Giám đốc trường cho ông thầu may mỗi giáo sinh một bộ complet màu xám. Tiền sẽ trừ vào cuối khóa. Thế là bỗng nhiên từ trên trời rơi xuống, mỗi anh giáo sinh có một bộ đồ lớn, diện vào mỗi chiều thứ bảy, dung dăng dung dẻ với người đẹp. Trông thiệt là oách! Nó chính là cái gai lớn trong con mắt mấy anh con trai Qui Nhơn. Phải tìm cách chơi lại mới được!
Với chiến thuật du kích, rình mò trong các hẽm vắng, bất cứ anh Sư phạm nào có âm giọng "chi, mô, răng, rứa" đều bị đột kích. Trịnh Công Sơn là một trong những nạn nhân đầu tiên. Anh bị tước mất đôi kính cận. Tiếp mấy ngày sau, con đường từ bệnh viện Nguyễn Huệ đến trường, chỗ nào cũng bị chận và khiêu khích đánh lộn. Đã có mấy vụ ẩu đả. Dĩ nhiên, bị bất ngờ, phe ta ôm đầu máu. Chuyện này náo động cả trường Sư Phạm. Thanh Hải, cây đờn ghi ta số một, lên xin phép thầy Hiệu Trưởng Đinh Thành Chương cho lập toán đặc biệt để bài trừ du đảng. Nhưng thầy không cho. Thầy bảo: "Nhiệm vụ đó là của Cảnh Sát. Các anh đến đây để học thành thầy giáo chớ không phải để thành cảnh sát". Sau đó, thầy liên hệ với chính quyền sở tại, xin can thiệp. Sự việc kéo dài cả nửa năm mới dứt. Riêng Trịnh Công Sơn, mất đôi kính, trở thành anh mù bất đắc dĩ, không đi học được. Bạn bè phải nhờ môi giới trung gian liên lạc với tên đầu đảng xin chuộc lại đôi kính. Vậy mà Sơn lại kể với Trịnh Cung chuyện mình luyện Judo! Để làm gì?Sau khi đại đội Triệu thuyên chuyển đi nơi khác, Sơn không dám đi uống cà phê tối nữa. Tôi ở nhà cuồng chân, buồn như chấu cắn. Mà đi một mình không có Sơn thì không vui. Một hôm, tôi cố rủ Sơn cho bằng được và cam đoan bảo đảm an ninh cho anh. Sơn không mấy tin tưởng vì tôi nhỏ con hơn anh. Sơn dò xét:
- Ông lấy cái gì bảo vệ tôi?
Tôi vỗ vào bụng và nói:
- Cái này bảo vệ cho ông và cho tôi!
Sơn cười ré lên. Đang nằm dài trên "đi-văng", Sơn nhổm dậy tới sờ vào bụng tôi, vừa cười vừa nói:
- Để coi mấy con lải trong bụng ông to cỡ nào mà bảo vệ được tôi?
Nhưng Sơn vội rụt tay lại và nín bặt. Hai mắt tròn xoe đầy ngạc nhiên nhìn tôi thắc mắc. Giọng tôi nghiêm chỉnh lặp lại:
- Được chưa?
Sơn vẫn đầy nghi ngờ:
- Ông lấy ra cho tôi coi nó là cái gì vậy?
Tôi thò tay vào áo, lôi ra một sợi dây điện, loại dây đôi, mềm, dài một thước rưỡi. Sơn lại càng thắc mắc:
- Ông đem dây điện theo dùng làm gì?
Tôi phải giảng giải sơ lược về công dụng của nó thay thế chiếc trường côn, tiện dụng mang theo bên mình, phòng khi hữu sự. Sơn tò mò:
- Tôi chưa nghe thấy bao giờ. Ông có thể kể cho tôi nghe học ở đâu và biểu diễn vài đường cho tôi coi được không?
Để cho Sơn hoàn toàn yên tâm, tôi lôi Sơn ra sân xem tôi đi vài đường lả lướt. Sợi dây điện lúc này theo sức từ trong tay tôi vung ra đã biến thành chiếc trường côn, quay tít trong không khí phát ra tiếng vù vù. Tôi chỉ biểu diễn vài đường trong bài "Thế roi tàng sư" rồi dừng lại. Sơn vỗ tay khen hay. Lúc này Sơn mới chịu mặc quần áo đi với tôi.
Suốt buổi tối cà phê đó, Sơn bắt tôi kể chuyện học võ. Tôi chỉ kể đại lược thôi, chứ kể hết thì dài dòng lắm. Sơn cười khoái chí những đoạn tôi đứng tấn cho tàn cây nhang, hai chân mỏi rã rời, té chỏng gọng. Hoặc tôi không chịu học các môn đao, thương, kiếm, kích mà chỉ yêu câu thầy dạy cho môn chạy trốn trong "tam thập lục kế, đào tẩu vi thượng sách."
Trịnh Công Sơn Con Người Tài Hoa Nhiều Mặt:
Ngoài tài năng âm nhạc, Sơn còn nhiều tài khác nữa. Môn nào cũng xuất sắc hết. Nhảy đầm rất bay bướm. Đánh bi da hết xẩy. Xì phé khỏi chê. Trừ cái món kia...
Nhảy đầm:
Cuối năm 1964, Tỉnh cho xây cất cạnh bờ hồ một công trình tân kỳ đặt tên là "Câu lạc bộ Lâm Đồng" dành cho quân, cán chánh trong tỉnh giải trí. Câu lạc bộ có hai tầng. Tầng dưới đặt mấy bàn bi da. Tầng trên bán cà phê và đồ nhậu. Mỗi buổi chiều, tắt nắng, chúng tôi kéo nhau lên CLB nhâm nhi cà phê, nhìn ra mặt hồ. Nhà thủy tạ giữa hồ được nối liền vào bờ bằng một chiếc cầu gỗ, dáng cong cong hình cầu vòng, sơn toàn màu đỏ, ẩn hiện giữa làn sương đục, đẹp như bức tranh thủy mạc. Chúng tôi cứ tưởng chừng như ngồi trên lầu Hoàng Hạc. Thật ra chưa ai biết Hoàng Hạc lâu tròn méo ra sao. Nhất là những chiều mưa lâm râm, lất phất. Khí trời lành lạnh, se se, kéo cao cổ áo măng tô, ngồi trên lầu, nhìn về phía hồ xa xa, nhớ người yêu mà ư ử hát: "Chiều này còn mưa sao em không lại! Nhỡ mai trong cơn đau vùi, làm sao có nhau! Hằn lên nỗi đau. Bước chân xin em về mau... " Hoặc: "Chiều một mình qua phố, âm thầm nhớ, nhớ tên em..." thì từng lời, từng lời thấm không chịu được. Nhạc của Sơn phải hát đúng trong khung cảnh ấy mới hay, mới cảm hết cái hồn của lời, của nhạc.
Người quản lý CLB cho hay, Tỉnh dự định sẽ làm lễ khánh thành CLB trước Tết dương lịch. Ngày đó Tỉnh sẽ mướn một số ca ve ở Sài Gòn lên, sẽ có dạ vũ tưng bừng. Đích thân Đại tá Tỉnh trưởng khai "bal". Nghe tin, anh nào cũng ạo ực. Nhưng nhìn lại toàn một đám nhà quê. Anh nào cũng chỉ biết nhảy lò cò. Trừ chàng họ Trịnh trúng mánh. Thế là cả bọn xúm lại đòi Sơn dạy nhảy.
Thời gian còn hơn tháng, làm sao học cho kịp. Phải gấp lên mới được. Căn phòng tôi và Sơn ở trở thành sàn nhảy. Nhưng đám học trò láu cá, muốn trắc nghiệm tài nghệ ông thầy trước mới học sau. Sơn phải biểu diễn vài đường bay bướm. Anh mượn chiếc ghế đẩu giả làm đào, khai "bal" bằng điệu Paso dồn dập. Miệng đánh nhịp, chân bước tới lui, nhịp nhàng, uyển chuyển. Từ Paso anh chuyển sang Cha Cha Cha, rồi Be bop, rồi Tango, quay cuồng với điệu Valse, trở về với Bolero và cuối cùng đứng yên một chỗ, lắc lư thân hình, nghiêng qua, ngã lại theo nhịp miệng Chắc... xình! Chắc... xình! của điệu Slow. Tất cả đều công nhận Sơn nhảy đẹp. Với đôi chân dài, Sơn nhảy Tango rất tuyệt. Thấy Sơn nhảy anh nào cũng ham. Nhưng nhìn lại mình, thấy thân hình ồ dề, thô cứng, nặng nề như trâu nước, anh nào cũng lắc đầu ngao ngán.
- Ông Sơn ơi! Tụi này mà học nhảy được như ông chắc phải tới Tết Công Gô, Tết Ma Rốc!
Sơn cười cười:
- Mấy cha tưởng dễ ăn hả! Hết bao nhiêu cơm gạo ở vũ trường rồi đó!
Rồi Sơn trấn an chúng tôi:
- Mà không sao! Mấy ông chỉ cần học một điệu Slow là đủ rồi. Điệu này rất dễ. Nhưng nhảy cho hay lại rất khó.
Để trấn an và gây thêm tin tưởng cho chúng tôi, anh kể chuyện một anh Tây già ở Sài Gòn, đêm nào cũng có mặt ở vũ trường. Sơn kể:
- Tôi hồi đó mới học nhảy nên cũng mê lắm. Nhưng học sinh làm gì có tiền. Thỉnh thoảng mới tới dancing, lần nào cũng gặp anh Tây già này. Anh Tây này cao lớn, có cái bụng phệ rất bự, dáng nặng nề nên không nhảy được các điệu khác, chỉ nhảy mỗi một điệu Slow. Anh ta ôm em nào cũng không hết vòng lưng vì bị cản bởi cái bụng. Anh ta cứ ôm riết em ca ve, đứng yên một chỗ. Hễ nghe tiếng bass đánh xình một cái, anh ta lắc nghiêng người một cái. Cứ thế cho đến cuối bản nhạc. Có điều đặc biệt đáng tức cười ở đây là mỗi lần đến đoạn nhạc du dương, đắc ý, anh ta thình lình buông em ra, bước lui một bước, tay phải nắm lại, đấm vào lòng bàn tay trái đánh bộp một tiếng, miệng khen bằng tiếng Việt "Hay...xì" rồi bước tới ôm em lắc lư như cũ.
Sơn vừa kể, vừa làm điệu bộ khiến chúng tôi cười rũ ra. Lối kể chuyện của Sơn rất có duyên và hấp dẫn. Sau mấy ngày tập dượt ráo riết, chúng tôi cũng thuần thục như anh Tây già. Chúng tôi náo nức trông cho mau đến ngày khánh thành để được ôm mấy em và trổ tài. Nhưng gần những ngày cuối năm Việt Cộng ăn Tết sớm, rót hỏa tiễn liên tục vào hai quận Di Linh và Bảo Lộc thay pháo, chương trình vui chơi phải hủy bỏ. Bài học "Chát...xình" không có cơ hội đem ra ứng dụng.
Bida:
Thường trực ở bàn bi da, bọn chúng tôi gồm năm đứa. Sơn, Tâm mập (tức Nguyễn Hảo Tâm phân biệt với Tâm lùn tức Nguyễn Văn Tâm), Nguyễn Đức Tín, Ngô Thanh Bạch và tôi. Chia thành hai phe, trường kỳ quyết đấu. Sơn và Tâm mập một phe. Tín và Bạch một phe. Tôi bị cho ra rìa vì đánh quá dở. Không bao giờ đi một "cơ" được ba điểm. Tôi được hội đồng phong cho chức trọng tài, lãnh nhiệm vụ đứng ghi điểm và phân xử những vụ ăn gian. Cuối cùng là ăn ké khi kết thúc màn quyết đấu. Đứng ngoài mới thấy rõ phong cách của từng người chơi.
Tâm mập có dáng xấu nhất vì cái bụng phệ phát triển quá sớm ở cái tuổi hai mươi bốn. Anh phải đứng dạng chân chàng hảng để cho cái bụng thấp xuống khỏi cấn thành bàn. Tay trái đặt trên mặt bàn, ngón tay trỏ cong lại như cái móc câu để giữ đầu "cơ", chứ không chịu hợp với ngón tay cái thành vòng tròn như mọi người.
Ngô Thanh Bạch to con, cao bằng Sơn, đứng phải rùn chân xuống. Mỗi lần chuẩn bị thụt một quả, anh nhắm tới, nhắm lui, lưỡi thè ra khỏi miệng, quẹo qua bên trái, hai hàm răng cắn chặt. Tôi cứ có cảm giác mỗi lần anh thụt trái banh là mỗi lần đứt lưỡi. Nhất là những cú "đề trô" lại càng toát mồ hôi lạnh.
Nguyễn Đức Tín đặc biệt có khuôn mặt tròn, trắng trẻo như cô Thúy Vân. Mỗi lần đi những đường cơ lắc léo, "ép phê còng tre", anh mắm môi, bặm miệng, hai con mắt ốc nhồi mở ra hết cở. Trán anh nhướng lên thành bốn lằn xếp. Anh liếm môi vài cái trước khi thụt một đường banh quyết tử. Trước khi thụt, mặt anh tái ngắt. Thụt xong, mặt lại đỏ như gấc, trước khi trở lại bình thường.
Riêng Sơn, tôi thích ngắm nhìn cái dáng của anh nhất. Người dong dõng, hai chân dài, anh đứng thẳng người, hai chân chụm lại, cúi xuống mặt bàn tạo thành một hình thước ở thắc lưng. Anh đặt tay trái xuống mặt bàn, hai ngón út và đeo nhẫn xòe ra hình rẽ quạt tựa xuống mặt nỉ, ngón giữa đỡ ngón cái và ngón trỏ đan hợp nhau thành một vòng tròn, ôm khít khao đầu ngọn cơ. Trước khi quyết định một đường banh, anh chăm chú nhìn ba trái bi, tay cầm cục "lơ" miết miết trên đầu "cơ". Khi anh bỏ cục "lơ" xuống thành bàn là đường "cơ" đã quyết định. Anh đánh thong thả, nhẹ nhàng, xoay quanh bốn cạnh bàn một cách khoan thai, từ tốn, không một chút phí sức. Tối thiểu một đường cơ của anh phải từ năm điểm trở lên. Tuy nhiên, có bữa phe anh cũng thua tơi bời hoa lá. Anh không thể nào cứu nổi bồ, khi Tâm mập chơi bết bát quá. Trong khi hai tay Bạch và Tín ngang sức, ngang tài. Chúng tôi chơi giải trí không ăn tiền. Cá độ bằng những chầu cà phê, bữa cơm trưa hoặc chầu bia tùy theo giờ giấc sáng, trưa, chiều và có lúc cả buổi tối nữa.
Những ngày cuối tháng lãnh lương, càng đông, càng vui nhộn. Chúng tôi có thêm Nguyễn Văn Chất, Võ Đôn Thao biệt danh "Sư phụ" từ cầu Đại Nga, giáp ranh với Tuyên Đức về. Di Linh có Nguyễn Văn Hiện và Lâm Văn Rầm. Lại có thêm lính mới tò te Đỗ Danh Đạo hổn danh Đạo Sữa. Ngoài ra còn có những bạn nhà binh. Những sĩ quan trẻ tuổi trạc chúng tôi, nhưng "xếp bút nghiên theo việc đao cung" sớm. Đó là những anh Vĩnh, Ngự, Tinh đều cùng cấp bậc Thiếu úy. Chỉ có anh Thành là Trung úy, Chi khu phó, đã có vợ và một con. Còn toàn là đám độc thân vui tính. Ông trùm Lãng không có tên trong bảng "phong thần" vì năm giờ chiều là ông đã trùm mền, xoa dầu Nhị Thiên Đường rồi.
Xì phé - Xập xám:
Mỗi thứ sáu đầu tháng, phòng chúng tôi trở thành sòng bạc. Nhà hai anh Lãng và Đạo thành nhà chứa. Đám bạn từ các nơi về tụ lại nhà tôi chơi bạc xong, kéo về nhà Lãng, Đạo ngủ. Đánh bạc thì tôi mù tịt. Tôi không có khiếu về môn này. Sau, cố học lắm, mới biết chơi tứ sắc. Nhưng lên rác, xuống rác, trôi rác, khui, quằn, đếm lệnh chẵn, lẻ, tới trơn, tới quan thì rắc rối quá. Tôi chỉ thích đánh "bấc" của người Bắc. Môn này vui và hấp dẫn hơn bài cào. Nó hay ở chỗ là bài cùng điểm mà lại ăn nhau ở hàng thập, hàng vạn, hàng văn, hàng sách. Nhưng đám nhà nghề như Sơn, Hiện, Rầm, Bạch, Thao, Tín... đều chê. Đó là dành cho dân nhà quê. Còn dân chơi thì chỉ xập xám hoặc xì phé mới đúng điệu. Sau khi lãnh lương, buổi sáng, ăn nhậu, bi da, cà phê đã đời, anh nào không có máu đen đỏ thì về nhà Lãng ngủ. Phần còn lại về phòng chúng tôi gầy sòng. Sơn một tay chấp hết. Anh trụ từ đầu hôm cho đến sáng, người vẫn khỏe. Nói theo kiểu Kim Dung, sắc mặt không thay đổi, hơi thở vẫn điều hòa. Nghĩa là có những anh, nửa đêm mệt quá phải ngã lưng, khò một chút. Anh khác thay tay. Sơn vẫn ngồi một chỗ, thuốc lá liên tục; cà phê hết ly này đến ly khác; không đi tiểu, mới lạ. Cứ trung bình mười ván là Sơn vơ làng hết bảy, tám.
Thua quá, những lần sau, Tín cạch. Tín chấp hai tay làm bộ xá xá:
- Ông Sơn ơi là ông Sơn ơi! Tiền lương em đây! Ông cứ lấy mà xài. Đừng "rê" em vào sòng nữa. Bàn tay ông có ma, ghê thấy mẹ. Em sợ lắm!
Nói xong, Tín cười hềnh hệch, đổi giọng:
- Bố bảo em cũng chả dám chơi với ông! Ghê thấy mẹ!
Có lần tôi hỏi Sơn:
- Này, ông học nghề ở đâu vậy. Có chơi lận không?
Sơn nói cho tôi biết bí quyết đánh bạc:
- Chẳng có gian lận gì hết! Chẳng qua mấy cha ấy cứ đưa bài cho tôi coi, tôi mới thắng được dễ dàng mà thôi.
Tôi không tin, vặn lại:
- Ông lại xạo rồi! Có ai đánh bài mà lại đưa bài mình cho người khác coi bao giờ?
Sơn thích thú giảng nghĩa:
- Tôi nói đưa bài có nghĩa là họ đưa cái mặt họ cho tôi biết. Nước bài của họ hiện lên nét mặt hết. Tại ông không ở trong nghề nên không biết, không chú ý theo dõi. Ông chỉ nhìn xuống chiếu, ngó quân bài thôi. Phải không nào?
Tôi phải công nhận Sơn nói đúng. Tôi chỉ nhìn những cây bài đánh xuống hoặc những chi bài binh xong xòe ra mà thôi. Sơn nói tiếp:
- Những tay cao thủ đánh bạc họ rất trầm tính. Không bao giờ để lộ cảm xúc trên nét mặt cho đối thủ biết. Ngược lại, đôi mắt họ rất sắc. Họ kín đáo quan sát đối phương để đoán từng nước bài mà tùy cơ ứng phó. Trong khi đó, ông ngẫm lại coi! Mất tay Thao, Tín, Hiện, Rầm, hễ bài tốt thì cười nói rầm rĩ. Bài xấu thì xịu mặt xuống, chửi thề ỏm tỏi thì làm sao mà tôi không biết.
Tôi phải phục lăn kinh nghiệm của Sơn. Một chân lý không cãi vào đâu được. Dẫu bên này hay bên kia chân núi Pyrhéné.
Tuy nhiên hay không bằng hên. Sự đời có những cái trớ trêu, tréo cẳng ngỗng, không ai có thể ngờ hết được. Sơn đã đại bại trước Phạm Quang Chữ, một tay mơ mới tập chơi. Anh Chữ, chân chỉ hạt bột, ngoài giờ dạy học là về phụ với vợ trong việc mua bán. Vợ anh có gian hàng bán quần áo trong chợ. Chị vợ ngồi thu tiền. Anh chạy vòng ngoài, gom hàng, giao hàng, tất bật suốt ngày. Anh ít giao thiệp với bạn đồng nghiệp vì mặc cảm với căn bệnh nan y của anh: bệnh cùi. Chỉ là đồn đoán thôi. Anh vẫn béo tốt, da dẻ hồng hào. Duy chỉ có hai bàn tay là hơi lạ. Bắp thịt hổ khẩu giữa ngón tay cái và ngón trỏ mất hẳn. Những ngón khác co rút lại, cầm đồ vật rất khó khăn. Người ta đồn anh nhờ uống vàng hàng tháng nên mới cầm giữ được không cho bệnh phát ra ngoài.
Trước khi bọn trẻ chúng tôi được bổ nhiệm tới, Ty Tiểu Học Lâm Đồng ở trong tình trạng buồn tẻ. Chúng tôi đã đem lại một nguồn sinh lực mới cho Ty. Với phương pháp giáo dục mới và tinh thần trẻ trung đã thay đổi hẳn cái không khí đều đều, buồn tẻ bao nhiêu năm nay ở cái xứ cao nguyên này. Phạm Quang Chữ là người đầu tiên bứt ra khỏi cái ao tù nước đọng đó. Về sau, còn có thêm nhiều người nữa tham gia vào cái không khí vui nhộn, cởi mở, phóng khoáng của chúng tôi. Trong đó có cả cụ Trạch, hiệu trưởng trường Nam Bảo Lộc, sắp hồi hưu. Ông Lợi Ty trưởng, rất văn nghệ, chịu chơi. Nhiều lần xắn tay áo cùng đám trẻ "hạ cờ tay", vừa nhậu, vừa đánh bạc.
Trở lại chuyện Phạm Quang Chữ đại thắng Trịnh Công Sơn.
Bài của Chữ đỏ từ đầu đến cuối. Hai tay cầm bài lòng khòng, lèo khoèo, rớt lên, rớt xuống, binh tầm bậy, tầm bạ mà vẫn cứ thắng. Chuyển sang tứ sắc. Mới đánh vài cây anh đã "tới" mà lại tới quan, khui, quằn tùm lum. Đêm đó anh hốt trọn. Anh nào cũng nhẵn túi. Nguyễn Đức Tín nổi khùng, chửi thề:
- Địt mẹ! Đúng là thánh nhân đãi kẻ khù khờ. Mèo mù vớ cá rán. Ông bà ta bạc tóc mới nói ra được điều gì thì trúng phóc điều đó, không sai một ly ông cụ.
Quay sang Sơn, Tín thọc cù léc:
- Chỉ có bàn tay ông cùi mới trị được ông bàn tay ma!Nói xong, Tín cười hắc hắc một thôi. Quả thật, đêm đó, Trịnh Công Sơn không còn một xu dính túi.
Cái khoản kia...
... Em Pleiku má đỏ môi hồng...Ở đây mùa đông...đi dăm phút đã về chốn cũ." Cái ông nhà thơ nào đó đã tả cái xứ cao nguyên rất đúng. Thật vậy! Cái phố quận Bảo Lộc gom lại bằng bàn tay ở một đoạn phố ngắn. Hầu hết cư dân đều sống biệt lập trong các xứ đạo hoặc trong những "phẹt". Danh từ "phẹt" lần đầu nghe lạ tai và buồn cười. Tôi cứ có ý nghĩ thô tục khi thấy những chiếc xe Lam chở khách, hai bên hông kẻ hàng chữ chỉ tuyến đường "Bờ Lao-Phẹt." Mãi về sau, có dịp đến phẹt mới biết đó là "Ferme", trang trại của người Pháp có đồn điền trà và cà phê tại đây. Mấy ông trong xứ Tân Thanh, Tân Phát phiên âm thành tiếng Việt là Phẹt.
Cái phố quận quá nhỏ, đến nỗi có người ví von, con chó cũng nằm không đủ chỗ phải ló cái đuôi ra bên ngoài. Cho nên mấy ông giáo đi đâu cũng đụng học trò của mình. Học trò ở đây đi học rất trễ. Có đứa cao tồng ngồng bằng thầy. Do đó, muốn giữ cái vỏ mô phạm luôn luôn sáng như trăng rằm để làm gương soi cho học trò, chúng tôi, mỗi tháng phải kéo nhau lên tận Đà Lạt, thác Gu gha, để du hí. Ở đây, ngoài phong cảnh thơ mộng, hữu tình, còn có những em Thái trắng, Thái đỏ chuyên phục vụ cái khoản... thứ ba. Nghe nói các em có nhiều kiểu lạ hơn người Kinh. Cả bọn chúng tôi về cái khoản... đó, đều "thường thường bậc trung". Chỉ có Võ Đôn Thao là được võ lâm tôn lên hàng Sư phụ. Đã không mất tiền cho em mà còn được em bao ngược. Tha hồ cơm no, bò cưỡi.
Ngón nghề này, anh nào cũng theo xin bí kíp. Võ Đôn Thao ngoài khả năng "Yêu em thật sâu...Yêu em dài lâu...", anh còn có tài "xúc cốt" đánh lừa Hội Đồng Y Khoa để được miễn dịch vĩnh viễn. Xúc cốt, theo Kim Dung, ông tổ nói phét trong truyện chưởng thì đó là môn võ công luyện được phép làm cho thân mình biến dạng, hoặc nhỏ lại, xương cốt co lại như đứa trẻ. Ở đây, Thao chỉ cần bẻ quặt chân phải mình qua một bên, đi lặt lìa, hệt như người què. Anh biểu diễn cho chúng tôi coi. Lại được một phen cười vỡ bụng. Nhờ vậy anh khỏi đi lính. Nhưng đây chỉ là chuyện nhỏ. Quan trọng là bí kíp "Nhất dương chỉ" chúng tôi ai cũng muốn theo thọ giáo. Đứng đầu là Trịnh Công Sơn. Công lực của anh rất kém. Theo Thao, đây là cơ duyên, trời cho ai nấy hưởng, không phải ai muốn luyện cũng được.
Anh kể lại cái cơ duyên của mình:
- Lúc tôi mới mười hai tuổi, học lớp Nhất ở Tuy Hòa, Phú Yên, bỗng dưng mắc một chứng bệnh kỳ lạ. Người cứ xanh mướt, ngày càng gầy ốm. Cha mẹ tôi hết lòng chạy chữa đủ thứ thuốc vẫn không thuyên giảm. Sau có ông thầy Tàu thuốc Bắc bắt mạch, chẩn bệnh quả quyết rằng tôi mắt bệnh hượt tinh. Thầy giảng giải cho cha tôi rõ về căn bệnh này là tuổi thanh niên thường vướng phải ba thứ tinh. Thông thường là mộng tinh. Trai đang sung sức, ban ngày thấy gái đẹp, đêm mơ tưởng giao hợp mà xuất tinh. Ví như bình đầy mà tràn. Không có hại. Cưới vợ là hết. Thứ hai, không nằm mơ mà vẫn xuất tinh, ấy là di tinh, giống như cái bình nghiêng, nước đổ. Cũng không hại lắm. Phương thuốc hiệu nghiệm để chữa là cưới vợ. Còn cái này, ông thầy Tàu chỉ tôi, gọi là hượt tinh, tức giống như cái bình lũng đít, chảy ngày, chảy đêm cho đến chết. Bệnh này gây ra do thần kinh quá yếu hoặc chơi bời quá độ mà thành.
Cha tôi nghe tới đó, trợn mắt:
- Thầy nói sao? Thằng con tôi mới mười hai tuổi mà thầy nói nó chơi bời quá độ?
Ông thầy Tàu biết mình bị hớ, nói chữa:
- A! Cái này tôi nói theo sách vở mà! Nhưng ông đừng có lo. Tôi cho mấy hộp "Tam tinh Hải cẩu bổ thận hoàn", cháu nó uống một tháng là hết bệnh.
Cả chục hộp, viên nào cũng to như ngón cẳng cái, tôi cố trợn trạo nuốt. Thuốc hết mà bệnh cứ y như cũ. Nghĩa là mỗi lần có chuyện gì xúc động bất ngờ hoặc hồi hộp, lo âu thì đũng quần tôi ướt đẫm. Ví dụ làm bài thi, gần hết giờ, bài vẫn chưa xong thì bị. Thình lình ai vỗ vai hù một tiếng cũng bị. Tiếp tục uống Tam Tinh Hải cẩu cả năm, người tôi cứ rạc dần, đi đứng hết nổi. Cha tôi phải mang tôi vào nhà thương Grall, Sài Gòn xin chữa. Ở đó bác sĩ Tây, họ tiêm vào đầu tôi cây kim dài cả gang tay để chữa. Tôi nằm ở đó gần sáu tháng thì bệnh dứt hẳn. Cha tôi tốn rất nhiều tiền nhưng cứu được thằng quí tử ông rất mừng. Đến năm mười tám tuổi, đi chơi gái lần đầu, tôi tình cờ phát hiện ra mình có khả năng kỳ diệu đó. Tôi có thể kiểm soát và điều khiển thằng "em tôi" theo ý muốn. Muốn tấn, thối, hoãn binh hoặc trường kỳ kháng chiến bao lâu cũng được. Bởi vậy, anh em trong võ lâm mới bái tôi là Sư phụ.
Nghe xong, chúng tôi đều thất vọng. Ngàn năm mới có cơ duyên một lần. Đâu đã đến phiên mình!
Mỗi lần lên Gu Gha, chúng tôi kêu bia uống vài chai cho nóng máy, thong thả ngắm các em Thái lượn qua, lượn lại để chọn thì Sơn lúc nào cũng tình nguyện làm người lính xung kích đầu tiên. Đánh nhanh, rút nhanh. Đó là phương pháp chiến đấu của Sơn. Có lần chúng tôi chưa uống hết chai bia, Sơn đã tàn cuộc chiến, mặt mũi bơ phờ, trở về hậu cứ.
- Thật phí đồng tiền, bát gạo! Tín phê bình.
Đến lượt Thao trổ tài. Quả thật lời đồn không sai. Chúng tôi cà kê đến chai thứ tư thì Thao đang hùng dũng trên đường chiến thắng trở về mang theo một tù binh: Một em Thái trắng (đồ mạo hóa) cũng Xà rông, cũng vòng cườm đeo tứ tung, nhưng chỉ nói được ba tiếng "bắt cái nước". Đó là tiếng Thượng, có nghĩa "ấy em". Còn thì nói rặc tiếng Việt. Hóa ra, em từ sông Mao, Phan Thiết lên đổi vùng. Bà chủ bắt mạch biết khách yêu hoa hay ham của lạ, đặc sản, nên treo đầu dê, bán thịt chó. Bà bắt mấy em thay đổi xiêm y, đeo vòng, giả làm sơn nữ Phà Ca câu khách.
Dần dà, thời gian sau, Sơn không tháp tùng với chúng tôi nữa. Cố "nài hoa, ép liễu" đến mấy, Sơn cũng tìm cớ thối thác. Khi thì lý do này, khi thì lý do nọ. Ngô Thanh Bạch phán một câu chắc nịch:
- Bây giờ ông Sơn có chị Năm rồi. Ổng đang hợp tác với hãng súc ve chai !
Tập vẽ :
Đến bây giờ, tôi mới biết Sơn còn kiêm thêm tài hội họa và đã nhiều lần cùng các ông Đinh Cường, Trịnh Cung đem tranh đi triển lãm khắp nơi. Lúc bấy giờ, Sơn chỉ ngồi hí hoáy vẽ theo mấy cái hình thiếu nữ mặt nhọn, một mắt. Người ốm tong, dài thoòng. Hai bàn tay thường kẹp giữa đùi. Hình nào cũng mờ mờ, không rõ nét. Sơn vẽ theo những hình bìa của Đinh Cường. Tôi không có óc thẩm mỹ và "i tờ rít" về hội họa nên thường phá đám Sơn trong lúc vẽ:
- Ông Sơn nè! Ví dụ như người con gái ông vẽ lâu nay, thình lình hiện ra như trong chuyện Bích Câu kỳ ngộ, thì ông có lấy làm vợ không?
Sơn đang chăm chú gôm đi vẽ lại, nghe tôi hỏi thế, ngẫn ra mấy giây mới đáp:
- Sao ông lại thô tục thế! Người đẹp trong tranh phải có cái khác người thật ngoài đời chứ. Nếu cứ phải cho giống thì chụp hình là dễ nhất. Mà đã thế thì còn đâu là nghệ thuật.
Tôi làm như hiểu ra thế nào là nghệ thuật bèn à lên một tiếng:
- Vậy nghệ thuật, nhất là về hội họa là phải vẽ làm sao cho khác với sự thật, lạ hơn sự thật, càng quái dị càng hay, đến lúc người xem không thể nào hiểu được bức tranh ông họa sĩ vẽ cái gì, thì lúc đó ông họa sĩ mới thực có tài và nổi tiếng?
Nghe tôi dài dòng cái sự "mới hiểu ra" nghệ thuật, Sơn gật gù:
- Gần gần như vậy!
- Thế thì tôi cũng sẽ nổi tiếng! Tôi sẽ vẽ tranh trừu tượng! Tôi hớn hở khoe.
Sơn trợn mắt nhìn tôi:
- Thiệt không cha? Cha mà cũng biết vẽ tranh trừu tượng? Vẽ thử tôi coi!
Tôi cười thầm trong bụng, vì Sơn bị tôi gạt:
- Dễ thôi! Tôi sẽ treo một khung tranh trống không. Nếu có ai hỏi, tôi sẽ nói: Đó là bức tranh tôi vẽ đàn bò đang ăn cỏ theo phái trừu tượng. Nếu còn thắc mắc: Đàn bò đâu? Tôi sẽ nói: Đàn bò ăn hết cỏ rồi, nó đi chỗ khác, chớ còn đứng đó làm chi!
Đến đây, Sơn chợt hiểu, cười phá lên, hỏi tôi:
- Ông đào ở đâu ra những chuyện tiếu như vậy?
- Thiếu khối gì! Cứ hỏi ông Đặng Trần Huân khắc biết.
Sơn không biết ông Huân là ai !
No comments:
Post a Comment