Giá trị Châu Âu : Những gợi ý cho sự phát triển
16/08/23
https://thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/29740-gia-tr-chau-au-nh-ng-g-i-y-cho-s-phat-tri-n
Vài năm gần đây, hình ảnh về một Châu Âu già
nua (Old Europe, Secular Europe) thường ám ảnh các nhà chính trị và các nhà hoạt
động xã hội Châu Âu.
Thật ra đây là một định kiến thiếu công bằng
và không mấy sáng suốt, nhất là đối với những người ở ngoài khu vực Tây Âu tin
vào định kiến này. So với Phương Tây ngoài Châu Âu và so với các khu vực khác mới
nổi thì đúng là Châu Âu đã già nua. Nhưng già nua đâu có phải là các giá trị
Châu Âu đã lỗi thời.
1. Châu Âu "già nua"
Bài viết này cố gắng đưa ra một cái nhìn như vậy.
Nhưng trước hết, chúng tôi muốn điểm qua cội nguồn của những quan niệm đã làm nảy
sinh định kiến này.
Như mọi người đều biết, từ đầu thế kỷ 20 mà đặc
biệt là sau Thế Chiến II, hầu hết những biểu tượng tốt đẹp gắn với những giá trị
tưởng như vĩnh cửu của nền văn minh Châu Âu bị hoài nghi sâu sắc.
Tại các vùng đất thuộc địa, chủ nghĩa dân tộc
cùng với chủ nghĩa quốc tế gia tăng mạnh mẽ đã làm cho phong trào xóa bỏ ách áp
bức các dân tộc thuộc địa trở thành làn sóng rộng khắp [1]. Từ
năm 1954, với sự cổ vũ của chiến thắng Điện Biên Phủ, toàn bộ hệ thống thuộc địa
của các đế quốc Châu Âu mất hẳn lý do để tồn tại. Toàn bộ tinh thần nghĩa hiệp
của các nhà tư bản và giáo sỹ phương Tây dưới ngọn cờ "Khai hóa văn
minh" đem đến những miền đất mới từ thế kỷ 14 đã hoàn toàn sụp đổ và hơn
thế nữa còn bị coi là công cụ tham tàn của chủ nghĩa thực dân.
Cũng từ đầu thế kỷ 20, Nước Mỹ đã thực sự nổi
lên như một thực thể văn minh mới. Các nước Anh, Pháp, Đức mất dần vị thế là những
trung tâm văn minh. Những giá trị thực dụng (Pragmatist), tự do,
dân chủ kiểu Mỹ cùng với một nước Mỹ ngày càng giàu có về kinh tế, hùng mạnh
về quân sự, năng động về văn hóa – xã hội… đã khiến cho người ta thêm nghi ngờ
về một Châu Âu bảo thủ, máy móc, thiếu thiết thực.
Rồi chủ nghĩa phi lý (Irrationalism)
thịnh hành và phát triển như một đối trọng của lý tính và chủ
nghĩa duy lý (Reason, Rationalism) : Duy lý hóa ra cũng mang trong nó nhiều
điều bất hợp lý. Chủ nghĩa cá nhân (Individualism) bị phê phán là cực
đoan, làm hỏng tính cộng đồng, tính xã hội của những nền văn hóa có bề
dày truyền thống. Tiếp sau chủ nghĩa cá nhân, đến giữa thế kỷ 20, chủ
nghĩa duy con người (Anthropocentrism – con người là trung tâm) cũng bị buộc
tội là nguyên nhân gây nên tình trạng chia cắt con người với giới tự nhiên và với
thế giới còn lại ; làm hỏng môi trường tự nhiên, phá vỡ mối liên kết cố hữu của
con người với hệ sinh thái và với vũ trụ…
Đến cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, trật tự địa
chính trị thế giới gần như phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ càng khiến cho Châu Âu
đánh mất thêm vị thế của mình. Những tham vọng trong việc mở rộng liên minh
Châu Âu, phát hành đồng Euro, làm sống lại khối Pháp ngữ… hóa ra cũng vẫn không
đủ để làm mờ đi những sự kiện kiểu như : khối Xô viết tan vỡ, chiến tranh ở Iraq
và Apghanistan ác liệt, NATO mở rộng sang phía đông, Trung và Nam Âu rối loạn…
hay, Châu Á khởi sắc, toàn cầu hóa đột ngột mạnh lên, v.v…
"Châu Âu già nua" – tuyên bố không
rào đón của một chính khách Mỹ vào năm 2003 khi Mỹ mâu thuẫn với một số nước Châu
Âu trong cuộc chiến Iraq đã khiến cho Châu Âu "chát đắng" khi buộc phải
đối mặt với một định kiến mà không ngờ lại nặng nề đến thế [2].
Nhưng Châu Âu già nua đâu phải là một phát hiện
mới. Hình ảnh "ông già Châu Âu" đã được người ta nói tới ngay từ cuối
thế kỷ 19. Chỉ có định kiến thiếu công bằng về sự già nua của Châu Âu thì đúng
là sản phẩm ngày càng được tô đậm ở nửa sau của thế kỷ 20.
Vậy Châu Âu đã đánh mất những gì ? Và, Châu Âu
"giao nộp" những giá trị của mình cho ai ?
2. Tây Âu và Phương Tây
Những câu hỏi này được quan tâm gần như thường
trực trong đời sống tinh thần Châu Âu nửa cuối thế kỷ 20 và cũng là những
nguyên cớ để xu hướng bi quan chủ nghĩa ở Châu Âu có thêm lý do tồn tại.
Nghĩa là có thể tìm được lời bàn luận về những
câu hỏi này ở nhiều tài liệu với nhiều tác giả. Tuy nhiên, theo chúng tôi, người
có tiếng nói đáng chú ý hơn cả về sự mai một các giá trị Châu Âu lại là
Aleksandr Zinov’ev, nhà triết học người Nga, một nhân vật đối lập thời Xô Viết,
người hiểu sâu sắc các giá trị Châu Âu bằng chính sự từng trải cá nhân sau hơn
20 năm phải sống lưu vong ở Đức. Ông có nhiều tác phẩm văn hóa và khoa học có
giá trị, trong đó có cuốn "Phương Tây" xuất bản năm 1995. Một trong
những đề tài mà ông tâm huyết là so sánh giá trị giữa văn hóa Tây Âu với văn hóa Nga và văn hóa nhân
loại [3].
Theo A. Zinov’ev, thế giới trong nhiều thế kỷ
gần đây được phát triển chủ yếu dưới sự soi rọi của "thứ ánh sáng nhân văn
rực rỡ của các nền văn minh Tây Âu".
Văn minh Tây Âu, Zinov’ev
khẳng định, "là nền văn minh vĩ đại nhất trong lịch sử loài người, nó đạt
tới hưng thịnh ở các thế kỷ 19-20, đỉnh điểm của nó là các quốc gia dân tộc Tây
Âu (Anh, Pháp, Đức, Italia…). Zinov’ev giải thích, văn
minh Tây Âu, như vẫn thường ẩn giấu trong nhiều định nghĩa, là "những giá
trị tinh thần được tạo ra ở những thời đại vĩ đại với những tên tuổi vĩ đại".
Thời đại vĩ đại mà Zinov’ev dẫn ra làm ví dụ là thời đại Phục Hưng. Những tên
tuổi vĩ đại mà ông kể đến với tính cách là những biểu trưng cho giá trị tinh thần
Tây Âu là Dante, Campanella, Michelangelo, Rafael, Shakespeare, Rablais, Thomas
More, Robert Owen, Mongtaine, Cervantes, Goethe, Beethoven và Mozart. Những người
Nga được ông nhắc tới là Chaikovsky, Mendeleev, Tolstoi…
Theo Zinov’ev, "văn minh Tây Âu có thể là
nền văn minh cuối cùng của lịch sử loài người" [4].
Tại sao lại là nền văn minh cuối cùng của lịch
sử loài người ?
Cuối cùng, theo Zinov’ev, không phải là sau đó
loài người không còn nền văn minh nào khác, mà là sau đó sẽ không có nền văn
minh nào có được các giá trị tinh thần khai sáng – nhân văn ở mức vĩ đại và rực
rỡ như thế nữa. Cách hiểu sự tận cùng, cuối cùng này cũng là lối diễn đạt mang
phong cách tư duy Phương Tây, đi theo dòng tư duy của Oswald Spengler trong
"Ngày tàn của Phương Tây" hay Francis Fukuyama trong "Sự tận
cùng của lịch sử và con người cuối cùng" [5].
Điều thú vị là Zonov’ev phân biệt Phương Tây với
Tây Âu. "Phương Tây", theo Zinov’ev, thường bị quy giản trong các
khái niệm chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân, chế độ tư hữu, thị trường, hay lợi
nhuận… Nói đến Phương Tây, tính chất địa – văn hóa của khái niệm đã bị mờ nhạt,
người ta quá chú trọng đến khía cạnh kinh tế – chính trị của vấn đề và do vậy
khái niệm Phương Tây vô tình đã loại ra khỏi nó những giá trị tốt đẹp của văn
minh, văn hóa Tây Âu và Châu Âu.
Phương Tây, theo thói quen được hiểu trong các
tài liệu chính trị – xã hội mấy chục năm gần đây, chủ yếu chỉ còn là Phương Tây
tư bản chủ nghĩa, thậm chí Israel, Australia, Nhật Bản đôi khi cũng được coi là
thuộc Phương Tây [6]. Đây
chính là lý do để Zinov’ev cho rằng, từ giữa thế kỷ 20, "thế giới Tây Âu
đã giao nộp một cách nhục nhã mọi thành quả của văn hóa và văn minh cho cái gọi
là phương Tây". Phương Tây mạo nhận mình là đại diện cho tất cả những gì
tiến bộ của Tây Âu. Nhưng thực ra tinh thần nhân đạo, giá trị khai sáng – tự
do, bình đẳng, bác ái – đã bị rơi rụng và méo mó đi rất nhiều.
Có thể thấy Zinov’ev hơi cực đoan khi nhìn nhận
vấn đề. Nhưng nên chú ý điều ông muốn nói : Những giá trị nhân văn cao cả của
văn minh phương Tây như duy lý, tự do, giải phóng con người… đã bị các giá trị
tư bản chủ nghĩa trong thế kỷ 20 chèn ép, làm suy giảm, thậm chí phủ nhận. Nói
cách khác, với những tiêu chí về phát triển xã hội trong thế giới hiện đại, người
ta có thể không cần đến các giá trị mà phải qua nhiều thế kỷ nền văn minh Tây
Âu mới tạo dựng được.
Nếu điều này là đúng hay, nếu lịch sử đã diễn
ra như thế – loại bỏ một cách không thương tiếc các giá trị văn minh Tây Âu,
thì phải chăng một logic như thế là bất khả kháng. Còn nếu nó không phải là tất
yếu thì đây là một sai lầm và là một thiệt thòi lớn cho con người và loài người.
Zinov’ev là đại biểu của quan điểm thứ hai.
3. Giá trị Châu Âu
Vào thời Cổ đại, Thổ Nhĩ Kỳ đã từng là mảnh đất
phía Đông của Đế quốc La Mã, thế nhưng đến nay Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chưa được gia nhập
Liên Hiệp Châu Âu. Một trong các lý do mà dư luận EU thường viện dẫn để khước từ
nguyện vọng của Thổ Nhĩ Kỳ là các giá trị Châu Âu của xã hội này không đủ chiếm
ưu thế.
Vậy giá trị Châu Âu gồm những gì ?
Đã từng có khá nhiều cách phân loại và tìm biểu
trưng cho giá trị Châu Âu, mà các giá trị cụ thể được chọn thường là những hiện
tượng văn hóa – xã hội có cội nguồn Châu Âu rồi từ đó lan tỏa, ảnh hưởng tới những
phần còn lại của thế giới. Chẳng hạn,
- Văn hóa Hy – La, Thiên Chúa giáo và Tư tưởng
coi Con người là trung tâm (Anthropocentrism) ; hay
- Chủ nghĩa Cá nhân (Individualism), Chủ nghĩa
Nhân đạo (Humanism) và Lý tưởng Giải phóng Con người (Emancipation) ; hoặc
- Chủ nghĩa Duy lý (Rationalism) và Tư tưởng
coi Con người là trung tâm ; hoặc
- Tự do – Bình đẳng – Bác ái…
Tuy nhiên, ở tầm phổ quát nhất, nếu
coi giá trị Châu Âu là kết tinh của những phẩm chất đặc thù về mặt
văn hóa – văn minh, được tạo dựng nên bởi những "tên tuổi vĩ đại trong những
thời đại vĩ đại" như Zinov’ev đã quan niệm, thì theo chúng tôi, có hai giá
trị nền tảng phải được nhắc tới là :
2.1. Chủ nghĩa duy lý
Trong các tài liệu, chủ nghĩa duy lý thường được
nói tới với các hình thức điển hình và rực rỡ của nó ở vào thời Phục Hưng và
Khai sáng. Nhưng trên thực tế, chủ nghĩa duy lý Châu Âu đã có khởi nguồn từ
Ptolemes (thế kỷ 2 sau Công nguyên), đóng vai trò là hạt nhân triết học – tư tưởng
– văn hóa của mọi nhận thức và hoạt động thực tiễn. Chủ nghĩa duy lý tồn tại
ở cả phạm vi thế giới quan, phương pháp luận và phương pháp, mà theo đó, lý
tính (Reason) là cái cơ bản trong nhận thức và hành động của con người. Về
phương diện định hướng giá trị, do tôn thờ chủ nghĩa duy lý, Châu Âu nhiều thế
kỷ qua coi "lý tính đang tư duy là thức đo duy nhất của mọi tồn tại… Tất cả
đều phải ra trước tòa án của lý tính để biện hộ cho sự tồn tại của mình hoặc từ
bỏ sự tồn tại của mình". Trong "vương quốc của lý tính" thế giới
"dùng đầu để đứng" (Hegel) [7].
Các đại biểu của chủ nghĩa duy lý thường được kể đến là Spinoza, Leibniz,
Descartes, Hegel…
2.2. Tư tưởng coi Con người là trung tâm
(Anthropocentrism)
Đã từ lâu, Anthropocentrism được coi là
"Mô hình Châu Âu về sự cảm nhận thế giới". Anthropocentrism tồn tại
phổ biến trong đời sống tinh thần Châu Âu dưới đủ các dạng nhận thức : huyền
thoại, tôn giáo, khoa học và thông thường… Trong lịch sử nhận thức, trước
Copernic, Anthropocentrism tồn tại theo cách hiểu bản thể luận, còn sau đó theo
cách hiểu nhận thức luận [8].
Với tính cách là mô hình Châu Âu về sự cảm nhận
thế giới, Anthropocentrism là thế giới quan đề cao vai trò chi phối, quyết định
của con người đối với thế giới. Nó định hướng giải quyết các vấn đề theo phương
thức không phải xuất phát từ thế giới đến con người, mà ngược lại, từ con người
đến thế giới – lấy con người làm mục đích, động cơ để giải quyết mọi vấn đề.
Anthropocentrism khẳng định ý nghĩa đặc biệt của
sự tồn tại người – chính sự tồn tại của con người mới là hạt nhân, là tâm điểm,
chứa đựng toàn bộ ý nghĩa của sự tồn tại vũ trụ. Anthropocentrism thể hiện sự
tin tưởng của con người vào "sức mạnh toàn năng" của mình.
Xin lưu ý rằng khi nói tới các giá trị cơ bản
của văn minh – văn hóa Châu Âu, bên cạnh Lý tính và Chủ nghĩa
duy lý, một số tài liệu không nói gì đến Anthropocentrism mà lại nhắc đến Chủ
nghĩa Cá nhân, Chủ nghĩa Nhân đạo hoặc tư tưởng Giải phóng Con
người. Đối với người Tây Âu, cách nói này là bình thường khi các tài liệu không
đòi hỏi quá khắt khe về độ chính xác của các khái niệm, thuật ngữ. Người ta hiểu
các giá trị độc lập (Chủ nghĩa Cá nhân, Chủ nghĩa Nhân đạo, Giải phóng con người –
và cả các giá trị mang tính cộng đồng, phái sinh từ các giá trị đó – Tự
do, Bình đẳng, Bác ái…) là các giá trị tiêu biểu trong hệ thống các giá trị
"Người" hoặc, là biểu hiện của giá trị chung Anthropocentrism.
Bởi vậy, nếu bắt gặp một tài liệu nào đó khẳng
định Lý tính (hoặc Chủ nghĩa duy lý) và Chủ nghĩa cá
nhân là hai giá trị Châu Âu cơ bản thì đó là một cách nói khác, một sự nhấn
mạnh khác, có thể tương đối hơn, nhưng không hoàn toàn khác biệt so với cách
phân loại trong bài này – Anthropocentrism và Chủ nghĩa duy
lý là cặp đôi giá trị cơ bản của văn minh – văn hóa Châu Âu.
4. Những gợi ý cho sự phát triển
Như đã nói ở đầu bài viết này, trong định kiến
về một Châu Âu đã già nua, nhìn chung, các nước đi sau lâu nay chưa chú ý đến
các giá trị Châu Âu một cách thỏa đáng.
Dĩ nhiên, kinh nghiệm của Châu Âu đôi khi là rất
khó hoặc không thể áp dụng. Nhưng định kiến, dẫu sao cũng làm cho người ta chú
ý nhiều hơn tới cái hay cái dở của khu vực khác, Mỹ, Châu Á chẳng hạn. Trong
khi đó, người ta lại dễ dàng bỏ qua những bài học giá trị, thậm chí cả những
bài học hoàn toàn có thể áp dụng được từ các xã hội Châu Âu.
Tại Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos 2008, các
chính trị gia bàn luận nhiều về khả năng các cường quốc mới nổi (Emerging) tại
khu vực Châu Á. Một nhà phân tích còn dự báo rằng tới năm 2050, sẽ xuất hiện ba
cường quốc thế giới là Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ. Không có ai tính đến khả năng
này của EU. Theo Joseph Nye, Giáo sư Đại học Harvard, một chuyên gia có tiếng về
nhiều lĩnh vực, nguyên trợ lý Bộ trưởng quốc phòng Mỹ thời Clinton, "việc
không đề cập tới Châu Âu, đánh giá không đúng mức về sức mạnh của Châu Âu là một
sai lầm" [9].
Rất may là gần đây, khi có khủng hoảng tài
chính thế giới 2008, tình trạng này mới được lưu tâm một phần. Châu Âu đã ít
nhiều được xem xét như một thực thể kinh tế – xã hội khỏe mạnh hơn, căn bản
hơn, bền vững hơn.
Sức mạnh của Châu Âu, theo Joseph Nye, khác với
sức mạnh Mỹ và các cường quốc khác, là một thứ sức mạnh nghiêng về phía "sức
mạnh mềm" mà thế giới hiện đại không thể không có nó. (Soft power – sức
mạnh mềm, theo Joseph Nye, là một thuật ngữ thường được hiểu
có phần tương đối, dùng để chỉ những ảnh hưởng, những tác động, những can thiệp…
thuộc về những nhân tố văn hóa – xã hội, kể cả những nhân tố tín ngưỡng, tâm
lý, truyền thống, giá trị… Đối lập với Hard power – sức mạnh cứng, sức mạnh
mềm là thứ sức mạnh phi quân sự, phi bạo lực, sinh ra từ sự lựa chọn chứ không
phải áp đặt. Nó có khả năng giải quyết tốt các vấn đề văn hóa – xã hội. Có 3
nguồn lực chính để tạo nên sức mạnh mềm của một quốc gia là : nền văn hóa,
hệ giá trị và hệ thống các chính sách. Trên thực tế, sức mạnh cứng và sức mạnh
mềm có khả năng hỗ trợ làm tăng ảnh hưởng cho nhau. Sức mạnh cứng có thể giúp
phát huy sức mạnh mềm, làm cho sức mạnh mềm trở nên hấp dẫn. Theo Joseph Nye,
khả năng kết hợp giữa sức mạnh mềm và sức mạnh cứng sẽ tạo ra Smart
power – sức mạnh thông minh) [10].
Sai lầm của việc không đánh giá đúng sức mạnh
của Châu Âu thể hiện ở mấy điểm sau :
- Không ai nghi ngờ, Mỹ đến năm 2020 sẽ vẫn là
một siêu cường. Nhưng quyền lực Mỹ lại không không mạnh trong việc đối phó với
các nguy cơ như bệnh dịch toàn cầu, biến đổi khí hậu, chủ nghĩa khủng bố và tội
phạm quốc tế… – những vấn đề sẽ ngày càng trở thành gánh nặng của thế kỷ 21. Hiện
nay, không có nơi nào có khả năng giải quyết các vấn đề này tốt hơn Châu Âu. Bởi
vậy, tác động tới quan điểm và quyền lực của Mỹ, Châu Âu chắc chắn sẽ ngày càng
có tiếng nói trọng lượng hơn.
- Châu Âu (phần Liên Âu-EU) từ sau Thế chiến
thứ II là vùng đất của hòa bình, ổn định và phúc lợi công cộng. Sự hợp tác phi
quân sự, đặc biệt trong các lĩnh vực văn hóa – xã hội, mà Châu Âu làm rất tốt
đã góp phần giúp thế giới hạn chế tình trạng thù địch, tăng cường phát triển thị
trường, đẩy mạnh giao lưu văn hóa, và trên tất cả là kiềm chế tâm lý chạy đua
vũ trang, say sưa bạo lực. Các nước Đông và Nam Âu, trong cố gắng gia nhập EU đều
đã cải thiện bộ mặt kinh tế – xã hội, điều chỉnh các chính sách của mình để làm
tăng sức hấp dẫn của họ đối với Châu Âu. Đây là kiểu phát triển có thể coi là đặc
trưng cho Châu Âu.
- Ngoài tác động trực tiếp, sức mạnh mềm Châu
Âu còn khá hữu hiệu trong việc tác động gián tiếp đến lập trường, quan điểm của
Mỹ, Trung Quốc và các quốc gia Hồi giáo.
Vào dịp kỷ niệm 50 năm thành lập EU (2007), những
giá trị của EU được nhắc tới nhiều nhất là thịnh vượng về kinh tế, đa dạng
về văn hóa và phát triển bền vững.
Người ta đánh giá đặc biệt tích cực về việc
xóa bỏ Visa, sử dụng đồng tiền chung Euro, điều mà mới chỉ vài chục năm trước bị
coi là viển vông khi ai đó dám mơ ước như thế. Các trường đại học Châu Âu, nhất
là Anh và Pháp vẫn thu hút mạnh số thanh niên giỏi của thế giới. Giáo dục ở bậc trung học và tiểu học Phần Lan
nhiều năm liền đứng đầu thế giới [11]. Na
Uy, Thụy Điển, Iceland là những nước có chỉ số phát triển con người (HDI) rất
cao trong gần 200 nước. Môi trường tự nhiên, an sinh xã hội, tiêu chuẩn tiêu
dùng và tự do cá nhân ở Châu Âu vào loại tốt nhất thế giới. Những người thất sủng
trong chính trị vẫn coi Châu Âu là mảnh đất đầu tiên khi phải tị nạn. Các giá
trị Châu Âu, đặc biệt những giá trị tinh thần và phúc lợi xã hội gắn với đông đảo
công dân EU được coi là hấp dẫn hơn nhiều so với các giá trị Mỹ. Người Châu Âu
nói chung càng ngày càng thấy rõ những khiếm khuyết của hệ thống kinh tế Mỹ. Số
liệu điều tra cho thấy, ngay cả Ba Lan và Hungary, hai nước nghèo và "thân
Mỹ" nhất trong EU cũng chỉ có chưa tới 25% dân chúng muốn đi theo mô hình
kinh tế Mỹ [12].
5. Thay lời kết
Trong tác phẩm nổi tiếng của mình "Đạo đức
Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản" viết vào những năm đầu thế kỷ
20, Max Weber đã đặt ra những câu hỏi đặc biệt có ý nghĩa về giá trị Châu Âu và
tìm phương án trả lời cho các câu hỏi đó.
Weber đặt vấn đề, tại sao chỉ có ở Châu Âu, những
hiện tượng văn minh – văn hóa mới đạt đến trình độ các giá trị phổ quát,
trở thành mô hình cho sự phát triển tiếp theo của toàn nhân loại. Weber dẫn ra
các hiện tượng : khoa học, đối âm và hòa âm trong âm nhạc, kiến trúc Gothic,
phối cảnh không gian trong hội họa, báo chí, trường đại học (theo mô hình
hiện đại), nền hành chính và chủ nghĩa tư bản… Theo Weber, điều đáng quan
tâm là, những hiện tượng đó chỉ ra đời ở Châu Âu, mặc dù tiền đề cho sự ra đời
đó lại đã từng xuất hiện ở các vùng đất khác. Ông tìm nguyên nhân văn hóa – xã
hội cho sự xuất hiện của những hiện tượng được coi là sản phẩm của xã hội Châu
Âu đó.
Giải thích của Max Weber được ca ngợi, được
tán đồng và cũng gây tranh cãi suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Giá trị Châu Âu, bởi vậy, cho đến tận hôm nay
vẫn còn nhiều bí ẩn cần phải nghiên cứu và học hỏi.
Hồ Sĩ Quý
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 13/08/2023
------
Giáo sư Tiến sĩ Hồ Sĩ Quý, Nguyên Viện trưởng Viện
Thông tin khoa học xã hội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Bài đã đăng
trên tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 1/2009.
No comments:
Post a Comment