Cái chết của một ngôn ngữ: Tiếng Việt Sài Gòn cũ
TRỊNH THANH THỦY
February 28, 2023
https://www.baocalitoday.com/breaking-news/cai-chet-cua-mot-ngon-ngu-tieng-viet-sai-gon-cu.html
Vấn đề ngôn ngữ là vấn đề của muôn thuở, không
riêng gì của người Việt. Trong bài viết này, tôi muốn bàn về một thực trạng của
tiếng Việt mà đã đến lúc, chúng ta không thể không suy nghĩ về nó một cách
nghiêm túc. Đó là nguy cơ diệt vong của một thứ tiếng Việt mà người miền Nam Việt
Nam dùng trước năm 1975 hay còn được gọi là tiếng Việt Sài Gòn cũ. Thứ tiếng Việt
đó đang mất dần trong đời sống hàng ngày của người dân trong nước và chẳng
chóng thì chầy, nó sẽ biến thành cổ ngữ, hoặc chỉ còn tìm thấy trong tự điển,
không còn ai biết và nhắc tới nữa. Điều tôi đang lo lắng là nó đang chết dần
ngay chính trong nước chứ không phải ở ngoài nước. Người Việt hải ngoại mang nó
theo hành trình di tản của mình và sử dụng nó như một thứ ngôn ngữ lưu vong. Nếu
người Việt hải ngoại không dùng, hay nền văn học hải ngoại không còn tồn tại,
nó cũng âm thầm chết theo.
Nhìn tiếng Việt Sài Gòn cũ từ từ biến mất,
lòng tôi bỗng gợn một nỗi cảm hoài. Điều tôi thấy, có lẽ nhiều người cũng thấy,
thấy để mà thấy, không làm gì được. Sự ra đi của nó âm thầm giống như những dấu
tích của nền văn hoá đệ nhất, đệ nhị cộng hoà VN vậy. Người ta không thể tìm ra
nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Cổ Thành Quảng Trị, nghĩa trang Quận Đội, trường võ bị
Thủ Đức, v.v… Tất cả đã thay đổi, bị phá huỷ hoặc biến đi như một sắp xếp của định
mệnh hay một định luật của tạo hoá.
Nhắc đến tiếng Việt Sài Gòn cũ là nhắc tới miền
Nam Việt Nam trước 1975. Vì cuộc đấu tranh ý thức hệ mà Nam, Bắc Việt Nam trước
đó bị phân đôi. Sau ngày Việt Nam thống nhất năm 75, miền Nam thực sự bước vào
sự thay đổi toàn diện. Thể chế chính trị thay đổi, kéo theo xã hội, đời sống,
văn hoá và cùng với đó, ngôn ngữ cũng chịu chung một số phận. Miền Bắc thay đổi
không kém gì miền Nam. Tiếng Việt miền Bắc đã chịu sự thâm nhập của một số ít
ngữ vựng miền Nam. Ngược lại, miền Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp sự chi phối của
ngôn ngữ miền Bắc trong mọi lãnh vực. Người dân miền Nam tập làm quen và dùng
nhiều từ ngữ mà trước đây họ không bao giờ biết tới. Những: đề xuất, bồi dưỡng,
kiểm thảo, sự cố, hộ khẩu, căn hộ, ùn tắc, ô to con, xe con, to đùng, mặt bằng,
phản ánh, bức xúc, tiêu dùng, tận dụng tốt, đánh cược, chỉ đạo, quyết sách, đạo
cụ, quy phạm, quy hoạch, bảo quản, kênh phát sóng, cao tốc, doanh số, đối tác,
thời bao cấp, chế độ bao cấp, chế độ xem, nâng cấp, lực công, nền công nghiệp
âm nhạc, chùm ảnh, chùm thơ, nhà cao tầng, đáp án, phồn thực, sinh thực khí, từ
vựng, hội chứng, phân phối, mục từ, kết từ, đại từ, nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân
dân,v.v…dần dà đã trở thành những từ ngữ quen thuộc trong đời sống hàng ngày của
người dân miền Nam.
Có những từ ngữ miền Nam và miền Bắc trước 75
đồng nghĩa và cách dùng giống nhau. Có những từ cùng nghĩa nhưng cách dùng khác
nhau. Tỷ như chữ “quản lý” là trông nom, coi sóc. Miền Nam chỉ dùng từ này
trong lãnh vực thương mại trong khi miền Bắc dùng rộng hơn trong cả lãnh vực cá
nhân như một người con trai cầu hôn một người con gái bằng câu: “Anh xin quản
lý đời em”. Hoặc từ “chế độ” cũng vậy, miền Nam chỉ dùng trong môi trường chính
trị như “chế độ dân chủ”. Miền Bắc dùng bao quát hơn trong nhiều lãnh vực như
“chế độ xem”, “chế độ bao cấp”. Có những từ miền Bắc dùng đảo ngược lại như đơn
giản – giản đơn; bảo đảm – đảm bảo; dãi dầu – dầu dãi; vùi dập – dập vùi. v.v…
Song song với việc thống nhất đất nước, chính
quyền Việt Nam đã thống nhất hoá tiếng Việt và gọi đó là “tiếng Việt toàn dân”.
Cuối năm 1979, đầu năm 1980, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Viện
Khoa học Giáo dục tổ chức một số cuộc hội thảo về vấn đề chuẩn hoá tiếng Việt.
Bộ Giáo dục cũng thông qua một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải
cách giáo dục. Ngày 01/7/1983, Quyết nghị của Hội đồng chuẩn hoá chính tả và Hội
đồng chuẩn hoá thuật ngữ đã được ban hành và áp dụng cho các sách giáo khoa,
báo và văn bản của ngành giáo dục.
Khi tiếng Việt được thống nhất và chuẩn hoá,
toàn quốc sử dụng chung một thứ ngôn ngữ theo một tiêu chuẩn, mẫu mực nhất định.
Tiếng Việt Sài Gòn cũ, gồm những từ ngữ mà tiếng Việt miền Bắc đã có từ ngữ
thay thế, sẽ bị quên đi hoặc bị đào thải. Những từ ngữ thông dụng cho cuộc chiến
trước đó sẽ biến mất trước tiên. Những: trực thăng, cộng quân, tác chiến, địa
phương quân, thiết vận xa, xe nhà binh, lạnh cẳng, giới chức(hữu) trách, dứt điểm,
phi tuần, chào bãi, tuyến phòng thủ, trái bộc pha, viễn thám, binh chủng, phi
hành, gia binh, ấp chiến lược, nhân dân tự vệ, chiêu hồi, chiêu mộ, v.v… hầu
như ít, thậm chí không được dùng trong hiện tại. Những từ ngữ thông dụng khác
như ghi danh, đi xem đã bị thay thế bằng đăng ký, tham quan. Nhiều từ ngữ dần dần
đã bước vào quên lãng như:sổ gia đình, tờ khai gia đình, phản ảnh, đường rầy,
cao ốc, bằng khoán nhà, tĩnh từ, đại danh từ, túc từ, giới từ, khảo thí, khán hộ,
khao thưởng, hữu sự, khế ước, trước bạ, tư thục, biến cố, du ngoạn, ấn loát,
làm phong phú, liên hợp, gá nghĩa, giáo học, giáo quy, hàm hồ, tráng lệ, thám
thính, tư thất, chẩn bệnh, chi dụng, giới nghiêm, thiết quân luật, v.v…
Ở hải ngoại, khi bắt đầu cầm bút, trong tâm thức
một người lưu vong, viết, đối với tôi, là một động tác mở để vỡ ra một con đường:
Đường hoài hương. Nhiều người viết hải ngoại cũng tìm đến con đường về cố hương
nhanh nhất này như tôi. Hơn nữa, để đối đầu với cơn chấn động văn hóa thường tạo
nhiều áp lực, tôi xem viết như một phương pháp giải toả và trám đầy nỗi hụt hẫng,
rỗng không của một người vừa ly dị với quê hương đất tổ sau một hôn phối dài.
Tôi không bao giờ để ý đến việc mình viết cho ai, loại độc giả nào, trong hay
ngoài nước, và họ có hiểu thứ ngôn ngữ mình đang dùng hay không vì lúc đó, chỉ
có một vài tờ báo điện tử liên mạng mới bắt đầu xuất hiện ở hải ngoại. Sau này,
nhờ kỹ thuật điện toán ngày một phát triển, cầu giao lưu giữa trong và ngoài nước
được nối lại, độc giả trong và ngoài nước đã có cơ hội tiếp xúc, thảo luận, đọc
và viết cho nhau gần như trong gang tấc. Đó là lúc tôi được tiếp xúc với dòng
văn học trong nước và làm quen với nhiều từ ngữ mới lạ chưa từng được nghe và
dùng. Ngược lại, trong nước cũng vậy, số người lên mạng để đọc những gì được viết
bởi người cầm bút ngoài nước cũng không ít.
Thế hệ chúng tôi được người ta âu yếm gọi là
thế hệ một rưỡi, thế hệ ba rọi hay nửa nạc nửa mỡ, cái gì cũng một nửa. Nửa
trong nửa ngoài, nửa tây nửa ta, nửa nam nửa bắc, nửa nọ nửa kia, cái gì cũng một
nửa.
Do đó, nhiều lúc tôi phân vân không biết mình
nên dùng nửa nào để viết cho thích hợp nữa. Nửa của những từ ngữ Sài Gòn cũ hay
nửa của tiếng Việt thông dụng trong nước? Mình có nên thay đổi lối viết không?
Tôi nghĩ nhiều người viết hải ngoại cũng gặp khó khăn như tôi và cuối cùng, mỗi
người có một lựa chọn riêng. Không chỉ trong lãnh vực văn chương, thi phú mà ở
các lãnh vực phổ thông khác như giáo dục và truyền thông cũng va phải vấn đề
gay go này. Việc sử dụng nhiều từ ngữ thông dụng của quốc nội ở hải ngoại đã gặp
nhiều chống đối và tạo ra những cuộc tranh luận liên miên, dai dẳng.
Các cơ quan truyền thông như báo chí, truyền
thanh, truyền hình thường xuyên bị chỉ trích và phản đối khi họ sử dụng những từ
trong nước bị coi là “chữ của Việt Cộng” và được yêu cầu không nên tiếp tục
dùng. Nhất là ở Nam Cali, báo chí và giới truyền thông rất dễ bị chụp mũ “cộng
sản” nếu không khéo léo trong việc đăng tải và sử dụng từ ngữ. Chiếc mũ vô hình
này, một khi bị chụp, thì nạn nhân xem như bị cộng đồng tẩy chay mà đi vào tuyệt
lộ, hết làm ăn vì địa bàn hoạt động chính là cộng đồng địa phương đó.
Trong cuốn DVD chủ đề 30 năm viễn xứ của Thúy
Nga Paris, chúng ta được xem nhiều hình ảnh cộng đồng người Việt hải ngoại cố
gìn giữ bản sắc văn hoá Việt Nam bằng cách mở các lớp dạy Việt ngữ cho các con
em. Khắp nơi trên thế giới, từ nơi ít người Việt định cư nhất cho tới nơi đông
nhất như ở Mỹ, đều có trường dạy tiếng Việt. Riêng ở Nam California, Mỹ, hoạt động
này đang có sự khởi sắc. Ngoài những trung tâm Việt ngữ đáng kể ở Little Saigon
và San José, các nhà thờ và chùa chiền hầu hết đều mở lớp dạy Việt ngữ cho các
em, không phân biệt tuổi tác và trình độ. Nhà thờ Việt Nam ở Cali của Mỹ thì rất
nhiều, mỗi quận hạt, khu, xứ đều có một nhà thờ và có lớp dạy Việt ngữ. Chùa Việt
Nam ở Cali bây giờ cũng không ít. Riêng vùng Westminster, Quận Cam, Cali, đi
vài con đường lại có một ngôi chùa, có khi trên cùng một con đường mà người ta
thấy có tới 3, 4 ngôi chùa khác nhau. Việc bảo tồn văn hoá Việt Nam được các vị
hướng dẫn tôn giáo như linh mục, thượng tọa, ni sư nhắc nhở giáo dân, đại chúng
mỗi ngày. Lớp học tiếng Việt càng ngày càng đông và việc học tiếng Việt đã trở
thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của cộng đồng lưu vong. “Tại Trung
tâm Việt ngữ Hồng Bàng, năm nay số học sinh nhập học tiếng Việt lên tới 700 em.
Những thầy cô dạy tiếng Việt đều làm việc thiện nguyện hoàn toàn, đã hết lòng
chỉ dạy cho các em, nhất là các em vừa vào lớp mẫu giáo tiếng Việt” (trích Việt
báo, Chủ nhật, 9/24/2006)
Về vấn đề giáo trình thì mỗi nơi dạy theo một
lối riêng, không thống nhất. Sách giáo khoa, có nơi soạn và in riêng để dạy hoặc
đặt mua ở các trung tâm Việt ngữ. Còn ở đại học cũng có lớp dạy tiếng Việt cho
sinh viên, sách thường được đặt mua ở Úc. Một giảng sư dạy tiếng Việt tâm sự với
tôi: “Khi nào gặp những từ ngữ trong nước thì mình tránh đi, không dùng hoặc
dùng từ thông dụng của Sài gòn cũ trước 75 vì nếu dùng cha mẹ của sinh viên, học
sinh biết được, phản đối hoặc kiện cáo, lúc ấy phải đổi sách thì phiền chết.”
Sự dị ứng và khước từ việc sử dụng tiếng Việt
trong nước của người Việt hải ngoại có thể đưa tiếng Việt ở hải ngoại đến tình
trạng tự mình cô lập. Thêm nữa, với sự phát triển rầm rộ của kỹ thuật điện toán
và thế giới liên mạng, báo chí, truyền thông của chính người Việt hải ngoại đến
với mọi người quá dễ dàng và tiện lợi. Độc giả cứ lên mạng là đọc được tiếng Việt
Sài Gòn cũ nên họ dường như không có nhu cầu tìm hiểu tiếng Việt trong nước. Kết
quả là tiếng Việt trong và ngoài nước chê nhau!!!
Việc người Việt hải ngoại chống đối và tẩy
chay ngôn ngữ Việt Nam đang dùng ở trong nước có vài nguyên do:
Thứ nhất là do sự khác biệt của ý thức hệ. Những
người Việt Nam lưu vong phần lớn là người tị nạn chính trị. Họ đã từ bỏ tất cả
để ra đi chỉ vì không chấp nhận chế độ cộng sản nên từ chối dùng tiếng Việt
trong nước là gián tiếp từ chối chế độ cộng sản.
Thứ hai, sự khác biệt của từ ngữ được dùng
trong cả hai lãnh vực ngữ nghĩa và ngữ pháp. Đây là một thí dụ điển hình. Trong
cùng một bản tin được dịch từ một hãng thông tấn ngoại quốc, nhà báo ở trong nước
và ngoài nước dịch thành hai văn bản khác nhau:
Trong nước:
Tàu ngầm hạt nhân Nga bốc cháy
Interfax dẫn một nguồn tin Hải quân Nga cho
hay ngọn lửa bắt nguồn từ phòng điện hóa và dụng cụ bảo vệ lò hạt nhân đã được
kích hoạt, do đó không có đe dọa về nhiễm phóng xạ. Phát ngôn viên hạm đội này
cho hay: “Lửa bốc lên do chập điện ở hệ thống cấp năng lượng phần mũi tàu.
Ngoài nước:
Hỏa hoạn trên tàu ngầm Nga
Hải quân Nga nói rằng lò phản ứng hạt nhân
trên tàu Daniil Moskovsky đã tự động đóng lại và không có nguy cơ phóng xạ xảy
ra. Chiếc tàu đã được kéo về căn cứ Vidyayevo. Nguyên nhân hỏa hoạn có thể do
chạm giây điện.
Một người Việt hải ngoại khi đọc văn bản thứ
nhất sẽ gặp những chữ lạ tai, không hiểu nghĩa rõ ràng vì sự khác biệt như những
chữ: phòng điện hoá, được kích hoạt, chập điện, hệ thống cấp năng lượng…
Hơn thế nữa, Việt Nam mới bắt đầu mở cửa thông
thương giao dịch với quốc tế; những từ ngữ mới về điện toán, kỹ thuật, y khoa,
chính trị, kinh tế, xã hội, ồ ạt đổ vào. Có nhiều từ ngữ rất khó dịch sát nghĩa
và thích hợp nên mạnh ai nấy dịch. Ngoài nước dịch hai ba kiểu, trong nước bốn
năm kiểu khác nhau, người đọc cứ tha hồ mà đoán nghĩa. Có chữ thà để ở dạng
nguyên bản, người đọc nhiều khi còn nhận ra và hiểu nghĩa nó nhanh hơn là phiên
dịch.
Trong việc phiên dịch, theo tôi, địa danh, đường
phố, tên người nên giữ nguyên hơn là phiên dịch hay phiên âm. Nếu có thể, xin
chú thích từ nguyên bản ngay bên cạnh hay đâu đó bên dưới bài viết sẽ giúp người
đọc dễ theo dõi hay nhận biết mặt chữ. Tỷ như việc phiên âm các địa danh trên bản
đồ trong sách giáo khoa của Bộ Giáo dục trong nước là việc đáng khen nhưng tôi
nghĩ, nếu đặt từ nguyên thủy lên trên từ phiên âm thì các em học sinh chưa học
tiếng Anh hoặc đã học tiếng Anh sẽ dễ nhận ra hơn. Xin lấy tỉ dụ là những địa
điểm được ghi trên tấm bản đồ này.
Tôi thấy một hai địa danh nghe rất lạ tai như
Cu dơ Bây, Ben dơ mà không biết tiếng Mỹ nó là cái gì, ngồi ngẫm nghĩ mãi mới
tìm ra: đó là hai địa danh Coos Bay và Bend ở tiểu bang Oregon, nước Mỹ!
Ngôn ngữ chuyển động, từ ngữ mới được sinh ra,
từ cũ sẽ mất đi như sự đào thải của định luật cung cầu. Tiếng Việt Sài Gòn cũ ở
trong nước thì chết dần chết mòn; ở ngoài nước, nếu không được sử dụng hay chuyển
động để phát sinh từ mới và cập nhật hoá, nó sẽ bị lỗi thời và không còn thích ứng
trong hoạt động giao tiếp nữa. Dần dà, nó sẽ bị thay thế bằng tiếng Việt trong
nước. Nhất là trong những năm gần đây, sự chống đối việc sử dụng tiếng Việt
trong nước ngày càng giảm vì sự giao lưu văn hoá đã xảy ra khiến người ta quen
dần với những gì người ta đã phản đối ngày xưa. Tạp chí, sách, báo đã đăng tải
và phổ biến các bản tin cũng như những văn bản trong nước. Người ta tìm được
nhiều tài liệu, ấn phẩm, sách nhạc quốc nội được bày bán trong các tiệm sách.
Các đài truyền thanh phỏng vấn, đối thoại với những nhà văn, nhà báo, chính trị
gia và thường dân trong nước thường xuyên. Đặc biệt, giới ca sĩ, nhiều người nổi
tiếng ra hải ngoại lưu diễn, đi đi về về như cơm bữa. Giới truyền thông bây giờ
sử dụng từ ngữ trong nước rất nhiều, có người mặc cho thiên hạ chỉ trích, không
còn ngại ngùng gì khi dùng từ nữa. Khán thính giả có khó chịu và chê trách, họ
chỉ giải thích là thói quen đã ăn vào trong máu rồi, không chịu thì phải ráng
mà chịu.
Sự ra đi của một chế độ kéo theo nhiều thứ:
con người, tài sản, nhà cửa, vườn tược, lịch sử… nhưng có cái bị lôi theo mà
người ta không ngờ nhất lại là “cái chết của một ngôn ngữ”. Đau lòng lắm thay!
========================================
Cộng
đồng người Việt tỵ nạn CS đi về đâu?
March 4, 2023
Mời xem video bình luận qua Youtube
No comments:
Post a Comment