UKRAINE
MƯỜI THÁNG CHIẾN TRANH: LỄ GIÁNG SINH ẤM ÁP
Mốc đánh dấu mười tháng cuộc chiến tranh của Putin tiến hành ở Ukraine
trùng với lễ Giáng sinh, và khi tôi bắt đầu viết bài này thì tổng thống Ukraine
V. Zelensky đã đặt chân đến Washington D.C được một số giờ. Tháng thứ mười của
cuộc chiến tranh trôi qua tưởng chừng như trầm lắng, nhưng nó không hề yên tĩnh
như chúng ta tưởng...
Khi Zelensky đến Nhà trắng, thì cựu tổng thống Nga, phó chủ tịch Hội đồng
an ninh Liên bang Nga đã “nhanh chân” đến Trung Quốc gặp ông Tập Cận Bình. Đến
đây tôi cho rằng chúng ta đã cần bỏ chút thời gian ra để đánh giá quan hệ Nga –
Trung Quốc từ sau ngày 24 tháng Hai năm nay được rồi.
Ngay trước thời điểm nước Nga của Putin tấn công vào Ukraine, Putin đã
gặp Tập Cận Bình ở Bắc Kinh và ông Tập – như tất cả chúng ta đều biết tuyên bố
về “một mối quan hệ không giới hạn” giữa hai nước. Chiến tranh bùng nổ cũng kéo
theo hàng loạt những lệnh cấm vận và trừng phạt của phương Tây áp đặt lên Nga,
cùng những động thái không làm tăng giá dầu thô thế giới dẫn đến khả năng Trung
Quốc mua được của Nga một lượng lớn dầu thô với giá chiết khấu khủng, nghĩa là
mua với giá “bèo” và cả “dưới bèo”. Nga đã phải bán hòa thậm chí lỗ dầu thô
không chỉ cho Trung Quốc mà còn Ấn Độ.
Người ta – chính xác là nhiều người Việt Nam xung quanh tôi viết trên mạng
xã hội: Trung Quốc hưởng lợi. Ngược lại, tôi luôn cho rằng Trung Quốc chẳng mấy
lợi lộc gì trong câu chuyện này cả. Cái mất đầu tiên của Trung Quốc là uy tín
hay danh tiếng xây dựng bấy lâu nay về một sức mạnh quân sự từng bước tiến tới
siêu cường, bị sứt mẻ nghiêm trọng. Vũ khí Trung Quốc về cơ bản vẫn được xây dựng
trên nền tảng của “khối xã hội chủ nghĩa” ngày xưa và bây giờ vẫn đang phụ thuộc
Nga ở nhiều phương diện... Những thể hiện kém cỏi của vũ khí Nga trên chiến trường
Ukraine đã làm cho giới chuyên gia đặt ngay câu hỏi: vậy thì sức mạnh của vũ
khí Trung Quốc đến đâu?
Sự thiếu thốn về công nghệ lõi của vũ khí Nga như thế nào thì của Trung
Quốc cũng vậy, có chăng đỡ hơn một chút nhưng thế giới cũng đã có câu trả lời
nhanh chóng khi thấy Trung Quốc lao đao vì bị Hoa Kỳ cấm vận microchip. Đây
cũng là một lý do góp phần vào việc đánh giá được phần nào sức mạnh thực sự của
quân đội và hải quân Trung Quốc đằng sau những hào nhoáng họ đang biểu diễn
trong bối cảnh dấy lên những lo ngại về một cuộc xâm lược Đài Loan.
Tôi đã mở đầu bằng một thiệt hại vô hình của Trung Quốc, và nó chưa thấm
vào đâu so với những thiệt hại của họ về chiến lược, đặc biệt là địa chính trị.
Vì những tuyên bố của mình (“không giới hạn!”) ông Tập đã lâm vào thế kẹt. Chắc
hẳn ông cũng cho rằng dù Nga Putin chắc chắn tấn công Ukraine, nhưng cuộc chiến
sẽ chóng vánh với phần thắng nghiêng về Putin. Trong trường hợp đó, cả Nga và
Trung Quốc đều có những thắng lợi to lớn về địa chính trị, mà Trung Quốc “ngư
ông đắc lợi” mà chẳng mất gì. Nhưng nước Nga của Putin chính thức sa lầy (không
như ông tướng về hưu nào người Việt Nam khẳng định “Nga sẽ không bao giờ sa lầy!”
– không chỉ sa lầy mà còn bắt đầu chìm như Tuần dương hạm Mátxcơva) và vì những
tuyên bố này của mình, ông Tập buộc phải đưa chính sách đối ngoại của Trung Quốc
vào trung lập.
Tiếc rằng thế giới văn minh không cho ai trung lập trước cuộc chiến này
cả. Tháng vừa qua là tháng có những đồn đoán về việc ngay Việt Nam cũng bị mất
nhiều đơn hàng từ Mỹ và EU vì những lá “phiếu trắng” của mình ở Liên hợp quốc,
thì Trung Quốc cũng sẽ ở tình thế tương tự, tất nhiên là Việt Nam khó khăn mười
thì Trung Quốc vốn khỏe, chỉ khó khăn một hai thôi... Cũng vẫn là câu chuyện đó
khi chúng ta chứng kiến thế giới hình thành một cục diện mới: một bên là những
nước ủng hộ Ukraine, và bên kia là những nước bỏ phiếu trắng.
Ông Tập Cận Bình đang chứng kiến trước mắt mình sự hình thành một liên
minh đoàn kết chặt chẽ của Hoa Kỳ và rất nhiều nước khác mà khối các nước phát
triển phương Tây là lực lượng mạnh mẽ nhất ủng hộ Ukraine trong cuộc chiến chống
lại nước Nga của Putin. Nước Nga của Putin đã tự mình đứng ra ngoài con đường
phát triển của nhân loại văn minh, và có lẽ bằng việc bắt tay với Putin, ông Tập
đã đi sai một nước cờ. Như đoạn mở đầu trên đây tôi nói về uy tín, trong địa
chính trị hiện đại người ta quan tâm nhiều đến “quyền lực mềm.” Đi sai nước cờ
này, uy tín của Trung Quốc của ông Tập đi xuống nhiều... gần bằng uy tín của
Nga – Putin đồng nghĩa với sự suy giảm nghiêm trọng của “quyền lực mềm.”
Một trong những mấu chốt của chiến lược bành trướng quyền lực mềm của
Trung Quốc là gieo rắc sự lo ngại về sức mạnh quân sự – kinh tế của họ (mặc dù
ngoài miệng vẫn nói rằng Trung Quốc không đe dọa ai) đặc biệt là trong mối quan
hệ với Nga. Nếu đánh giá một cách khách quan, sự liên kết có tính bù đắp cho
nhau giữa Nga và Trung Quốc về mọi phương diện, đem lại một sức mạnh đáng sợ và
hoàn toàn có thể coi là một “cực” của trật tự thế giới mới. Các “cực” chính đó
là Hoa Kỳ, Liên Âu, Trung – Nga... có mối quan hệ với nhau vừa hợp tác, vừa cạnh
tranh chưa đối đầu nhưng đã bắt đầu có yếu tố kình địch. Khía cạnh hợp tác,
Trung Quốc vẫn sẽ đóng vai trò công xưởng của thế giới đồng thời tiếp tục tranh
thủ công nghệ phương Tây. Khía cạnh kình địch, đó là sự tăng cường sức mạnh
quân sự của liên minh Trung – Nga đến mức dần dần cân bằng trong đối trọng với
Hoa Kỳ và NATO.
Hơn thế nữa, việc Nga xâm lược Ukraine đã làm dấy nên sự lo ngại về chiến
tranh, vì đã lâu thế giới được sống trong một nền hòa bình tương đối (không kể
một số điểm xung đột hạn chế). Nếu như ở châu Âu, một loạt các nước khởi động lại
quá trình tăng cường sức mạnh quốc phòng thì quá trình này cũng diễn ra ở châu
Á – Thái Bình Dương nhưng với cái nhìn dè chừng dành cho... Trung Quốc. Trước mắt
có thể chưa có những liên minh mới để chống nước này, nhưng chắc chắn những thể
chế đang có cũng sẽ cố gắng đi đến những quyết sách mới mà trong đó bao giờ kẻ
thù giả định cũng sẽ phải là Trung Quốc. Đó là chưa nói đến việc một số nước
trong khu vực sẽ cố gắng lôi kéo những “kẻ thù tiềm tàng” của nước này ví dụ
như Ấn Độ về phía mình.
Một loạt nước: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Philippines... đều
có những động thái tăng cường cảnh giác và chắc chắn sẽ có những đầu tư thích
đáng cho sức mạnh quốc phòng. Trong cái lý luận “Nga gây chiến được thì Trung
Quốc cũng sẽ làm được” – chúng ta đã chứng kiến ngay lập tức Đài Loan có những
hành động chuẩn bị cho chiến tranh và Hoa Kỳ cũng không thể ngoài cuộc. Điều
này làm cho Trung Quốc cũng không thể ngồi yên: không làm gì thì mất uy tín (lo
người ta đánh giá là “yếu, sợ”) mà làm thì mang tiếng là hiếu chiến và cùng hội
cùng thuyền với Nga. Thế là cực chẳng đã, Trung Quốc phải tiến hành tập trận ở
eo biển Đài Loan (hồi giữa tháng Tám năm nay) tốn cả đống tiền.
Thực tế, kế hoạch của Trung Quốc với Đài Loan cho đến giờ phút này là
không rõ ràng, hay chính xác là họ không để lộ ra cho thế giới biết. Một mặt, họ
làm thế nào để thế giới hiểu rằng họ luôn luôn chuẩn bị một kế hoạch đổ bộ chiếm
đảo, nhưng mặt khác thì họ vẫn tăng cường việc thông thương và xúc tiến đầu tư
giữa hai bờ eo biển. Đầu tư của doanh nhân Đài Loan vẫn là một nguồn lực cực kỳ
quan trọng cho kinh tế Đại Lục, không vì lý do gì mà nó bị phá vỡ. Chỉ cần một
tin “mai Trung Quốc tấn công Đài Loan” chắc chắn thị trường chứng khoán cả khu
vực mà rất nhiều sàn trên lãnh thổ Trung Quốc, đỏ rực đến chao đảo.
Tuy nhiên trong tuyên truyền cho nhân dân quốc nội, Trung Quốc chưa bao
giờ bỏ khẩu hiệu “Thu hồi Đài Loan, thống nhất đất nước bằng mọi giá.” Điều đó
làm cho dư luận quốc tế tin rằng dù bằng cách này hay cách khác, ở một thời điểm
thích hợp họ sẽ thu hồi vùng lãnh thổ này. Xét ra thì Ukraine là một nước có chủ
quyền còn bị xâm lược, thì Đài Loan chưa được phần lớn các nước công nhận là độc
lập, vị thế yếu hơn nhiều.
Cuộc chiến tranh ở Ukraine không chỉ làm “tăng mức ưu tiên” trong chính
sách của Mỹ với eo biển Đài Loan, nó còn làm ảnh hưởng cả đến cục diện bàn cờ
Đông Bắc Á của Trung Quốc. Thế cân bằng đang được duy trì giữa Trung Quốc – Triều
Tiên và bên kia là Hàn Quốc – Nhật Bản thì bây giờ sẽ xuất hiện những dè chừng
mới, những căng thẳng mới và những sự mất cân bằng mới, thể hiện ra trước hết
trong quan hệ Liên Triều. Dù thể hiện ra ở hai bên vĩ tuyến 38, nhưng về cơ bản
vẫn là “Triều Tiên có Trung Quốc đằng sau.” Trong câu chuyện này, tư duy “khả
năng thành lập liên minh Nga – Trung Quốc – Triều Tiên rất cao” không phải là
hiếm, và nó chẳng hay ho gì cho Trung Quốc cả. Mối quan hệ của Trung Quốc với Bắc
Triều Tiên kiểu “vừa nuôi vừa quật bằng roi nhưng ngấm ngầm” không thể bị quy kết
công khai, nhất là thêm thành viên nay đã là “thằng hủi của thế giới” là Nga
Putin, thật không đẹp đẽ chút nào. Nếu câu chuyện này có tiến triển ở bất kỳ mức
độ nào, chắc chắn Trung Quốc là người phải ngăn chặn nó đầu tiên.
Bên cạnh bàn cờ Đông Bắc Á, bàn cờ Nam Á cũng là một điểm đang nóng dần
lên. Trên đây tôi vừa nhắc đến Ấn Độ như là một nước có thể bị “lôi kéo” chứ thật
ra, nước này không đi lôi kéo nước khác thì thôi, chẳng ai lôi kéo được họ. Từ
khi cuộc chiến nổ ra ở Ukraine, Ấn Độ luôn là một nước tỏ ra có đường lối đối
ngoại rất độc lập: không những không ủng hộ Ukraine và lên án Nga, mà còn xích
lại gần Nga trong một loạt các phương diện quan hệ song phương, đặc biệt về quốc
phòng. Thái độ này của Ấn Độ cho thấy họ có những toan tính riêng của mình về
chiến lược địa chính trị, và không nên quên rằng đối với họ phương Tây vẫn là
quan trọng nhất về kinh tế, văn hóa, giáo dục... Việc thân mật với Nga chỉ là lợi
dụng Nga yếu thế để “gần gũi” hòng kiếm vị thế. Nhưng mà cái vị thế đó để làm
gì? – Để đối đầu với Trung Quốc, kẻ thù trực tiếp.
Trong cơn giãy giụa, Putin đá đổ thế cờ của Trung Quốc cả ở hai hướng Bắc
và Nam Á là như thế.
Dân gian nói: “để yên thì người ta còn sợ, bây giờ bộc lộ hết chẳng ai
còn sợ nữa” rất đúng với trường hợp Nga Putin. Không chỉ bị ảnh hưởng đến uy
tín sức mạnh quân sự, Trung Quốc mất luôn cả cái tư thế góp phần tạo thành một
“cực” của thế giới.
Có thể nói, ông Tập đã “trái chiếu chỉ của tiên đế” Đặng Tiểu Bình lúc
sinh thời khẳng định: “Sự phát triển của Trung Quốc không thể tách rời khỏi thế
giới.” Câu này thực sự bao hàm cực nhiều ý nghĩa: Trung Quốc có thể thách thức
vị thế dẫn đầu hay nói cách khác, bá chủ thế giới của Hoa Kỳ, nhưng nó phải là
một kế hoạch được lên và thực hiện lâu dài và tế nhị. Cho đến trước cuộc chiến
tranh của Putin ở Ukraine, Trung Quốc hình như vẫn đang thực hiện tốt phương
châm này. Một ý nghĩa nữa của “kim chỉ nam” là Trung Quốc vừa phục vụ thế giới,
vừa làm sao để thế giới phục vụ mình, trong đó Hoa Kỳ là một phần rất lớn của
cái “khái niệm thế giới” đó.
“Sai lầm kép” của Putin – Tập Cận Bình đã bắt đầu đẩy Trung Quốc tách rời
khỏi thế giới. Cú “cấm vận chip” trên đây là một trong những ví dụ cụ thể nhất
cho quá trình đó. Có thể đưa ra nhận định rằng, bằng sai lầm và thất bại của
mình Nga đã làm chệch hướng chiến lược của Trung Quốc. Nếu tiếp tục ở lại gần
Nga, cũng có nghĩa là khẳng định cho một kế hoạch chiến lược hình thành một cực
mới ở châu Á – Thái Bình Dương với một liên minh kinh tế - quân sự Nga – Trung
Quốc (có thể có thêm Ấn Độ, Bắc Triều Tiên và cả... Iran, trừ Ấn Độ ra thì toàn
tay có trong sổ đen cả!). Nếu nổi lên trên dư luận thế giới những lý luận về
liên minh hay “cực” này, thì tất cả những quy kết cho phương Tây về “âm mưu mở
rộng NATO về phía Đông” trở nên lý do chính đáng, hay quy kết đó là vô nghĩa,
nói thế nào cũng được.
Sự “tách khỏi thế giới” này dường như đang bắt đầu bằng sự tách kinh tế
Nga khỏi thế giới dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ, bằng những động thái như giảm sự
phụ thuộc khí đốt Nga của Tây Âu cho đến khi “cai” hẳn, áp giá trần mua dầu
Nga... tất cả đều dựa trên cái xương sống là chính sách trừng phạt và cấm vận.
Dần dân, các công ty Trung Quốc cũng vì lo ngại “dính” cấm vận mà giảm làm ăn với
Nga, dẫn đến việc đứt gãy chuỗi cung ứng cả hai chiều giữa hai nước. Sâu sắc
hơn nữa, chẳng hạn trong lĩnh vực vũ khí có rất nhiều thứ công nghệ Nga vẫn phụ
thuộc vào vài nước Liên Xô cũ, đặc biệt là Ukraine... đứt mắt xích Nga thì
Trung Quốc cũng không tiếp cận được những công nghệ đó, nếu tiếp tục đứng hẳn về
phía Nga.
Rạn nứt trong quan hệ Nga – Trung không chỉ từ góc độ hai nhà nước, mà
còn từ góc độ xã hội. Bất chấp những tuyên truyền chống Ukraine và ủng hộ Nga của
chính quyền Trung Quốc, dư luận xã hội Trung Quốc cũng chia hai phe và điều
đáng nói là phe chống Nga càng ngày càng đông đảo. Điều này có những nguyên
nhân lịch sử của nó: Nga dưới thời Đế quốc của Sa hoàng, đã tham gia xâu xé
Trung Quốc thời nhà Thanh. Năm 2020 Nga tổ chức kỷ niệm 160 ngày thành lập
thành phố Vladyvostok, dư luận Trung Quốc đã dấy lên ý kiến “làm thế nào đòi lại
Hải Sâm Uy (tên tiếng Trung của thành phố)?” Câu chuyện những bất công của Hiệp
ước Aigun năm 1858 mà nhà Thanh phải nhượng khoảng 230.000 dặm vuông lãnh thổ
Trung Quốc cho Nga lại nổi lên.
Chưa kể đến những bất hòa thời Stalin – Mao giữa hai “Đảng anh em.”
Trên đây tôi đã nhắc đến những tuyên truyền chống Ukraine của Trung Quốc
– thực chất thì câu chuyện này đã diễn ra từ trước đó nhưng được thể hiện dưới
một cách khác. Nếu Nga (mà trước đây là Liên Xô) đối đầu với Mỹ, thì ai là người
hưởng lợi? Là Trung Quốc! Vì thế lý luận “mối đe dọa Hoa Kỳ” và sau năm 1991 là
“nguy cơ mở rộng NATO về phía Đông” có thể nói Trung Quốc là một đồng tác giả.
Đến thời Putin, các lý thuyết này càng được củng cố vững chắc, trước hết là
trong nội bộ xã hội hai nước. Trong quan hệ với Nga, Trung Quốc luôn muốn gây
chia rẽ Nga – Mỹ, chẳng hạn trước những nỗ lực của ông Obama hồi đầu thập niên
2010 muốn cải thiện quan hệ hai nước, Trung Quốc đã lên tiếng cảnh báo Nga về
“âm mưu lừa dối của Mỹ.” Về cuộc chiến này cũng như vậy, Mỹ luôn là thủ phạm
chính: đưa ra những mồi, bả, thính... thơm phức để thúc đẩy sự thèm muốn của
người Ukraine muốn xin gia nhập NATO và EU.
Thực tế đã chứng minh ngay cả khi súng đã nổ trên lãnh thổ Ukraine, nước
này xin gia nhập hai tổ chức trên vẫn chưa được chấp thuận. Nhưng nó là một
trong những lý do chính để biện minh cho hành động xâm lược một nước có chủ quyền
của Nga Putin.
Chúng ta đã nói về câu chuyện uy tín quốc gia, thì bây giờ cũng không
nên bỏ qua câu chuyện về uy tín cá nhân lãnh đạo. Cho đến trước ngày 24 tháng
Hai năm nay, dường như vai trò Putin (uy tín có vẻ còn nguyên!) được xây dựng
hình ảnh như là lãnh đạo nước ngoài thân cận và tin cậy nhất của ông Tập Cận
Bình, thì bây giờ hình ảnh của ông Tập cũng đã xấu đi rất nhiều cùng với hình ảnh
của Putin.
Sau mười tháng chiến tranh, trong khi các hỗ trợ của phương Tây với
Ukraine có thể nói là “vô tiền khoáng hậu” thì Trung Quốc vẫn kiên quyết không
nhả ra cho Nga một viên đạn súng trường nào. Mặc dù gọi là “chưa” nhưng thực tế
thì liên minh Nga – Trung Quốc đã chính thức tan vỡ. Putin chẳng mặt mũi nào
sang gặp Tập Cận Bình vì nhiều lý do: lừa đồng minh, đang thua liểng xiểng trên
chiến trường. Và ông ta cử Medvedev, cái loa rè luôn bị vodka chi phối nội dung
đi thay, cho thấy bản thân Putin cũng chẳng hi vọng gì lắm vào kết quả chuyến
đi. Lần trước Lavrov đi sứ đã không có kết quả, lần này cấp cao hơn cũng chẳng
có gì khá khẩm, chắc hẳn phải đích thân Putin đến lạy lục mới được chăng?
Một trong những lý do mà ông Tập dù “phiếu trắng” hay “trung lập”,
không ủng hộ Putin là sự mất lòng tin. Trước những thông tin mà đáng tin cậy nhất
là từ Hoa Kỳ về khả năng Nga tấn công Ukraine, rõ ràng trước cuộc chiến Putin
không hề chia sẻ gì với Tập về kế hoạch của mình, ngoài những lời lẽ hoa mỹ về
quân đội Nga “thứ hai thế giới.” Những gì quân đội này thể hiện trên chiến trường
đã góp phần thêm vào cái sự mất lòng tin của Trung Quốc vào Nga nói chung.
***
Ở phần trên của bài viết tôi đã đề cập đến những ảnh hưởng của cuộc chiến
đến Trung Quốc, và thực tế nó đã thể hiện ra ở sự ghẻ lạnh khi tiếp D. Medvedev
của ông Tập Cận Bình. Theo những thông tin tôi biết được dù chưa được xác minh,
thì ông Tập đưa ra một yêu cầu cứng rắn với Nga về việc phải ngừng bắn, rút quân
khỏi những vùng chiếm được sau ngày 24 tháng Hai và cùng Ukraine bước vào đàm
phán; đồng thời từ chối giúp đỡ Nga về quân sự. Tất nhiên những thông tin này sẽ
không bao giờ có trên mặt báo trong nước, nhưng nó là điều dễ hiểu. Trung Quốc
nhận lời giúp Nga trong thời điểm này mới là khó hiểu, khi mà họ cũng đang lao
đao vì Covid-19 và đã phải ngửa tay nhận lô vaccine đầu tiên từ nước ngoài.
Cũng trong tương quan địa chính trị giữa các cường quốc thế giới, cuộc
chiến Putin gây ra ở Ukraine không chỉ làm suy giảm vị thế, uy tín... nói chung
là đủ mặt của cả Nga lẫn Trung Quốc, mà nó đã nâng vị thế của nước Mỹ lên một tầm
cao mới. Nói chính xác, nó đã đưa Hoa Kỳ về vị trí cũ khỏi cái tình thế bị coi
thường dưới thời ông Donald Trump. Cá nhân tôi không phải là người tôn sùng Hoa
Kỳ, nhưng phải thừa nhận một cách khách quan rằng đó là quốc gia có sức mạnh thực
sự. Không chỉ là sức mạnh kinh tế, mà ngay trong đại dịch Covid-19 vừa qua họ
đã đóng góp phần lớn vào việc giúp thế giới thoát nạn. Không phải Sinopharm, không
phải Sputnik, thậm chí không phải AstraZeneca, mà là vaccine của Hoa Kỳ!
Tôi cũng không hiểu tại sao có một bộ phận không nhỏ người Việt Nam cứ
khấp khởi vào việc Nga Putin thách thức vị thế siêu cường của Hoa Kỳ để làm gì?
Tôi chưa bao giờ cho rằng họ muốn vị thế đó cả, mà vị thế đó là tự nhiên, và nó
kéo theo những vấn đề liên quan đến trách nhiệm toàn cầu. Có những “hành động
trách nhiệm” tôi không ủng hộ như đem bom đạn đến đánh nước khác, nhưng có những
hành động mà không có siêu cường như họ là không được. Khi ông Trump rút Hoa Kỳ
khỏi các Hiệp ước quốc tế về bảo vệ môi trường, tôi đã rất thất vọng – những Hiệp
ước đó không chỉ yêu cầu về sức mạnh tài chính, mà còn là khả năng tổ chức và
triển khai nhanh chóng các nguồn lực tới bất cứ xó xỉnh nào của trái đất.
Cuộc chiến ở Ukraine một lần nữa khẳng định, Hoa Kỳ có vai trò cực kỳ
quan trọng với an ninh toàn cầu, còn Nga của Putin đang đóng vai trò tiêu cực,
thậm chí phản động, phá vỡ đi cái trật tự đó. Với Trung Quốc, việc toàn thế giới
nhận ra vai trò hiển nhiên đó của Hoa Kỳ là một thất bại nghiêm trọng. Putin
không chỉ đốt lưới nhà, mà còn “giúp” Tập Cận Bình nhận vài bàn thua, thật chẳng
cái vớ vẩn nào giống cái vớ vẩn nào.
***
Nếu như tháng thứ chín của cuộc chiến chúng ta chứng kiến cú chạy nháo
nhào của quân Nga để lại cả vùng hữu ngạn Dnipro (cả thành phố Kherson luôn!)
cho quân Ukraine giải phóng không tốn một viên đạn, thì tháng thứ mười này là
“tháng của Bakhmut”. Trước đây tôi đã từng viết trên mạng xã hội: “Bakhmut sẽ
không bao giờ mất vào tay quân Nga” – thì ngay trước chuyến bay của mình sang Mỹ,
tổng thống Zelensky đã đến tận chiến hào thăm những người lính ở đây. Hành động
này đã chứng minh: “Ukraine sẽ không để Bakhmut thất thủ.”
Trên các diễn đàn, người Nga than thở: “Đánh nhau mà một ngày chết 600,
700 lính trong khi bên kia (Ukraine) người ta mất có 75 lính, thì làm sao mà thắng
được?”
Tin tức đến với chúng ta ít, làm chúng ta tưởng có vẻ trầm lắng nhưng đều
đặn mỗi ngày con số báo cáo số lính Nga thiệt mạng ở Ukraine, không hề thấp. Điều
đó làm chúng ta hiểu rằng người Ukraine đang giữ bí mật các hoạt động của mình,
và trầm lắng đó phải chăng là sự yên tĩnh trước một cơn bão? Giữa ngày thứ 300
và ngày thứ 301 của cuộc chiến, con số lính Nga vĩnh biệt dương thế đã cán mốc
100.000 người – một con số biết nói, thật kinh khủng và tất cả tai họa đó đều từ
một con người Putin – phải nói là một người tâm hồn đã bị quỷ dữ sai khiến.
Trong tháng thứ mười này cũng là tháng của những tin đồn về một lệnh tổng
động viên nữa của Putin sẽ tiến hành vào đầu năm sau. Trước đó, những tin đồn
tung ra nói rằng Nga sẽ tổng động viên vào khoảng ngày 15 tháng Mười hai, nhưng
cuối cùng họ đã không làm. Một người bạn ở Mátxcơva kể rằng có vẻ chuyện tổng động
viên này không được chuẩn bị ráo riết gì cho lắm, vì rất nhiều người diện chắc
chắn phải nhập ngũ vẫn được xuất cảnh bình thường. Điều đó cho phép chúng ta nhận
xét rằng, những căng thẳng trong xã hội Nga cũng đã lên khá cao, nếu bây giờ có
thêm một lệnh động viên nữa, thì chưa chắc đã lường hết được hậu quả của nó.
Lại có những tin đồn khác về một đợt tấn công của Nga sẽ tiến hành vào
đêm 25 – 26 tháng Mười hai, từ hướng Belarus. Chúng ta thì không có quyền gạt
đi mọi khả năng, nhưng hãy cùng nhau đặt câu hỏi rằng, nếu điều đó họ (người
Nga) cố gắng làm thật, thì khả năng thực hiện của họ sẽ như thế nào? Họ cần bao
nhiêu quân, bao nhiêu xe tăng? Trong kế hoạch đó, quân dù (VDV) của họ đâu, có
còn được bao lăm không? Không quân của họ có làm chủ được bầu trời hay không?
Và cuối cùng, làm thế nào vượt qua được đầm lầy Polesie (hay còn gọi là đầm lầy
“Pinsk Marshes” nằm giữa Ukraine và Belarus, trên lãnh thổ Ukraine nó chạy dài
từ biên giới hai nước đến tận gần Kyiv) mà không phải kéo quân trên những con
đường độc đạo hai bên nó?
Lúc Nga tấn công vào Kyiv hồi tháng Ba, là lúc họ mạnh nhất. Vậy bây giờ
căn cứ nào để cho rằng họ dám làm điều điên rồ đến cỡ định xông lại đánh đối thủ
bằng năm ngón tay xòe? Nếu họ còn dự trữ để đánh nhau, thì họ đã phải đem ra từ
lâu để thủ thắng rồi, chứ chẳng phải để đến bây giờ. Cũng trong tháng thứ mười
này, rất nhiều thông tin về những “mong muốn” của Nga – Putin về một cú “ngừng
bắn” hay triển vọng đàm phán.
Tôi không hi vọng gì vào những điều đó – Putin sẽ không bao giờ từ bỏ
chủ nghĩa tối đa của mình. Tất cả những gì ông ta nói và làm có thể đúng là
mong muốn có được một thời gian hòa hoãn, nhưng rồi khi phục hồi Nga sẽ lại tấn
công. Các chuyên gia ước tính, để có được số xe tăng như trước chiến tranh, Nga
cần 6 năm không bị cấm vận. Để tổ chức được một trận tấn công như “Trận chiến
giành Donbas” họ tiến hành hồi mùa hè (kết quả chiếm được hai thành phố
Serevodonetsk và Lysychansk) họ cần từ 6 tháng đến một năm không bị cấm vận. Vì
thế mùa đông này chứ không phải thời gian nào khác, là cơ hội duy nhất cho người
Ukraine đánh quỵ quân đội của Putin, “một lần cho xong để có hòa bình vĩnh viễn.”
Ông Zelensky đến Hoa Kỳ vào đúng dịp sắp Giáng sinh. Ngày hôm qua có
người bạn nhắn trên mạng xã hội kể với tôi rằng có người “pro Putin” vẫn cố giải
thích rằng liên minh phương Tây ủng hộ Ukraine có sự rạn nứt nên ông Zelensky mới
phải sang Mỹ. Tư duy này có logic riêng của nó, khi chúng ta đã chứng kiến
Lavrov rồi bây giờ là Medvedev sang Trung Quốc và hiểu rằng đi để... cầu cứu.
Tư duy giản đơn thì áp ngay cho Zelensky: đi cũng để cầu cứu.
Nhưng hãy nhìn lại lúc quân dù Nga tràn vào chỉ cách chỗ ông ấy hơn chục
cây số, ông ấy không đi, dù lúc đó nếu kêu gọi giúp đỡ được thì quý biết bao.
Lúc quân Nga trút bão lửa xuống Serevodonetsk, ông ấy không đi, dù lúc đó cần
M-777 và HIMARS biết bao. Bây giờ ông Zelensky đi sang Mỹ, là đúng lúc cần khẳng
định: cuộc chiến sẽ có kết cục thắng lợi cho Ukraine, nên ông có thể rời nhiệm
sở đi vài ngày được rồi. Và món quà Giáng sinh ông mang về không chỉ là tiền,
không chỉ là vũ khí... mà là sự khẳng định Ukraine phải chiến thắng trong cuộc
chiến này, và cơ hội đã ở trước mắt rồi. Đối lại, một lần nữa nước Mỹ khẳng định
sẽ cùng thế giới văn minh giúp Ukraine chiến thắng chủ nghĩa phát-xít Putin.
Hôm Zelenski đi thăm chiến hào Bakhmut, có bác viết trên mạng:
“Zelensky, tôi phục ông quá!” và tôi thấy rất đồng cảm với “status” đó; thì bây
giờ rất muốn viết: “Biden, cháu quý chú quá!”. Merry Christmas to you both!
Giáng sinh năm nay đã bắt đầu thấy ấm, và chắc chắn Giáng sinh năm sau sẽ là
Giáng sinh hòa bình thật ấm áp cho người dân Ukraine. À không, chiến tranh sẽ kết
thúc vào mùa xuân sang năm. Xin nhắc lại câu tôi đã viết khi Kyiv bị quân Nga
đe dọa căng thẳng nhất: “Rồi mùa xuân sẽ về trên sông Dnipro.”
----------------------------------------
Bài trên “Nhịp cầu Thế giới” tại đây:
http://nhipcauthegioi.hu/.../Ukraine-10-thang-chien-tranh...
----------------------------
Bài trên Fanpage tại đây:
----------------------
Bài trên Blog tại đây:
https://www.nguoilangthangcuoicung.net/.../ukraine-muoi...
Hình :
https://www.facebook.com/photo/?fbid=824469991974393&set=pcb.824470468641012
Zelensky tặng cờ Ukraine cho Pelosi
https://www.facebook.com/photo?fbid=824470051974387&set=pcb.824470468641012
Zelensky phát biểu trước Lưỡng Viện Quốc
Hội Hoa Kỳ
.
No comments:
Post a Comment