Võ Đắc Danh
21 tháng 6, 2022
https://saigonnhonews.com/van-hoa-van-nghe/phung-ha-tram-nam-nhin-lai/
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2022/06/phung-ha-5-16365820.jpg
Bà
Phùng Há lúc trẻ (file photo)
Ông Trương
Nhân Trưởng, người làng Phú Lạng, huyện Hạc Sơn, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Những năm cuối thế kỷ XIX, ông đi làm thuê cho một vựa trái cây ở Quảng Tây, một
buổi tối, ông nghịch ngợm lấy viên pháo nhét vào bím tóc của một người bạn rồi
châm tàn thuốc lên ngòi pháo, pháo nổ, bím tóc bay mất. Chuyện chỉ có vậy,
nhưng ông bị nhà chức trách truy nã về tội mưu sát, phải rời bỏ nhà cửa, vợ con
và tổ quốc để làm kẻ lưu vong sang Việt Nam. Đến Mỹ Tho, ông làm nghề mua bán
thịt bò. Tại đây, ông kết hôn với bà Lê Thị Mai, một thôn nữ đẹp người đẹp nết ở
làng Điều Hòa và sinh được bảy người con, bốn trai ba gái.
Câu chuyện
về ông sẽ không được ai biết đến, sẽ không có gì để kể thêm. Nhưng chính cái
ngã rẽ vô tình của cuộc đời ông lại là cội nguồn của nghệ sĩ Nhân dân Phùng Há.
Khác với những người Hoa khác, con cái của ông Trưởng lớn lên đều được ông đưa
về cho bà vợ lớn ở cố hương để học ngôn ngữ và lễ nghi Trung Quốc, sau đó muốn ở
lại hay trở qua Việt Nam thì tùy theo điều kiện và ý thích của mỗi người.
Năm 1915,
ông Trưởng qua đời trong khi đang trở thành một người giàu có ở Mỹ Tho: Một lò
gạch, một xưởng cưa và một trang trại nuôi bò. Cô Bảy Phùng Há lúc bấy giờ mới
lên năm tuổi. Ông Trương Tích Kỳ, con trai đầu của ông Trưởng cùng với chú ruột
là Trương Nhân Bá đã lập mưu chiếm đoạt cơ ngơi bằng cách giao cho bà Mai cùng
với cô Bảy và người em út là Trương Nguyệt Hảo mang bộ hài cốt hỏa táng của ông
Trưởng về Hạc Sơn an táng và ở lại bên ấy để thọ tang.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2022/06/9624_phvd273b2djpg.jpg
Bà
Phùng Há trong một vở diễn (file photo)
Năm ấy, ở
Quảng Đông xảy ra trận dịch đậu mùa, hàng ngàn người thiệt mạng, trong đó có
Trương Nguyệt Hảo. Cô Bảy thoát chết nhưng mang trên gương mặt trẻ thơ lốm đốm
vết rỗ hoa mè. Sống trong cảnh làm thiếp mà không chồng, bà Mai không chịu nổi
những tập tục, lễ nghi phong kiến hà khắc của gia đình Tàu mà mọi quyền hành nằm
trong tay bà chánh thất, bà Mai khóc thầm trong đau khổ, muốn trốn về quê mà
túi lại không tiền.
Hiểu được
cảnh ấy, người con gái thứ tư của bà là Trương Liên Hảo, đang làm dâu một nhà
hào phú ở Hạc Sơn, đã lén chồng bán của hồi môn để mua vé tàu cho mẹ và em về
nước. Trên chuyến tàu Tây hôm ấy, mấy bà đầm phát hiện Cô Bảy Phùng Há mắc bệnh
đậu mùa, họ la chóe lên, hành khách xôn xao, thủy thủ đoàn kéo cô quăng xuống
biển, mẹ cô lạy lục van xin, những hành khách người Việt và người Hoa đứng ra
ngăn cản. Cuối cùng họ đồng ý cho cô đi nhưng hai mẹ con cô phải cách ly, ngồi
vào một góc xa phía sau hầm máy.
Về đến Mỹ
Tho, bà Mai mới tá hỏa ra rằng mình không còn quyền hành gì trong ngôi nhà cũ,
vì tất cả cơ nghiệp của ông Trưởng đã thuộc về người em chồng và đứa con trai.
Sống trong nhà mình mà con trai và con dâu luôn nặng lời chửi em mắng mẹ. Một
hôm, Trương Tích Kỳ ném cho bà Mai hai chiếc vé tàu và mấy đồng lộ phí buộc bà
và Cô Bảy Phùng Há trở về Hạc Sơn. Bà Mai tức tưởi, nghẹn ngào dắt con gái về
làng cũ Điều Hòa, tá túc trong căn chòi xơ xác của người mẹ mù lòa. Bà bị suy sụp
rồi lâm bệnh.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2022/06/00-16415102.jpg
Bà
Phùng Há và Bạch Công Tử (file photo)
Cô Bảy
Phùng Há – cô bé Trương Phụng Hảo lúc ấy – đành phải chạy ra tìm anh Hai để xin
tiền lo thuốc thang, ăn uống cho mẹ và ngoại. Trong cơn say sượu và thuốc phiện,
ông Kỳ đã không cho tiền mà còn nặng lời trách mắng vì đã không về Hạc Sơn theo
ý muốn của ông. Cô chạy sang nhà của cha mình mà bây giờ đã thuộc về tay người
chú ruột để khóc than, ông Nhân ném cho một đồng rưỡi, ông hứa mỗi tháng sẽ cấp
cho mẹ con cô từ một đồng rưỡi đến hai đồng.
Bà ngoại
qua đời, hai mẹ con cô tiếp tục sống trong căn chòi hiu quạnh, xác xơ, bữa rau
bữa cháo. Dù trong cảnh nghèo đói, khổ đau, nhưng bà Mai vẫn vắt kiệt sức mình
trong một tiệm thêu để cho con gái được đến trường. Một người bạn cũ của ông
Trưởng đã giúp Cô Bảy được vào học miễn phí ở trường Ecole Jeunes Filles – một
trường tiểu học của Pháp tại Mỹ Tho. Và tại nơi đây, Cô Bảy Phùng Há đã bắt đầu
nổi tiếng về năng khiếu ca hát của mình. Nhưng cũng chính vì cái năng khiếu ấy
mà cô đã bị đuổi ra khỏi trường khi chưa học xong chương trình tiểu học.
Hôm ấy, bà
Đốc học La Fuste đi vắng, bà Giáo Kỳ vốn mê giọng hát của Trương Phụng Hảo nên
tổ chức cho cô hát trong giờ học của bà. Phòng học nằm cạnh ven đường nên khi
cô hát, người qua đường cũng đứng lại xem, rồi những tràng pháo tay vang lên. Bất
ngờ, ông Chánh thanh tra Ty giáo huấn ghé qua, ông buộc tội học trò Trương Phụng
Hảo làm mất trật tự học đường. Bị đuổi học, Cô Bảy Phùng Há chợt nhớ lời một nữ
tu hồi cô còn học bên trường Giồng: “Con hát hay lắm, nhưng chính giọng
hát của con sau nầy sẽ làm khổ đời con”.
Bà
Phùng Há (ngồi) trong một vở diễn (file photo)
Thật ra,
lúc ấy nếu cô không bị đuổi học thì cũng không còn điều kiện nào để học. Mẹ cô
vì lao lực lẫn lao tâm mà kiệt sức, nay ốm mai đau. Để có từng bữa ăn cho hai mẹ
con, Cô Bảy phải lặn hụp dưới từng con rạch, dòng sông để kiếm từng con cá bống,
con tép, con cua, đi móc từng trái dừa thuê cho các chủ vườn để mua cho mẹ từng
thang thuốc bắc.
Một hôm,
có bà láng giềng tốt bụng đã giới thiệu cô vào làm công cho lò gạch của ông
Bang Hoạch. Cứ in một trăm viên gạch, cô được trả ba xu. Với sức vóc của cô bé
lên mười, mỗi ngày cô kiếm chưa được mười xu, nghĩa là chưa đầy một cắc bạc.
Nghĩ mình từng là con của ông chủ lò gạch, bỗng dưng lại trắng tay, giờ phải ngồi
in từng viên gạch, chắt mót từng đồng xu ở một lò gạch khác, lòng cô cứ ngậm
ngùi, buồn chán cho thân phận, cô vừa làm vừa nghêu ngao hát như một sự giải
bày. Nhưng mỗi lần cô hát thì cả nhóm thợ lắng nghe. Tiếng hát của cô đã gieo
vào lòng người một niềm cảm xúc đến nao lòng. Mấy chị bảo: “Từ nay em
không phải làm nữa, cứ vào đây ngồi hát cho mấy chị nghe, mấy chị sẽ làm thay
phần việc cho em”.
Như vậy
là, tiếng hát của cô đã nuôi sống mẹ con cô từ năm mười một, mười hai tuổi, để
rồi từ nơi ấy, từ cái lò gạch ấy, tiếng hát của cô mỗi ngày cứ vang lên, bay
cao và bay xa hơn, khắp mọi miền Tổ quốc, vượt cả không gian và cả thời gian để
trở thành cây đại thụ của nền nghệ thuật sân khấu nước nhà.
***
Có những
lúc cô đang hát say sưa thì bất chợt nhìn thấy một người đàn ông đứng trước cửa
lò gạch nhìn vào, say sưa nghe cô hát. Rồi cũng bất chợt một buổi chiều khi đi
làm về thì thấy người đàn ông ấy đã có mặt trong nhà cô. Mẹ cô cho biết đó là
ông Hai Cu, chủ tiệm vàng kiêm bầu gánh Tái Đồng Ban ở Mỹ Tho. Gánh Tái Đồng
Ban đang gặp sự cố, con trai ông, kép hát Hai Gỏi vừa mới qua đời, người tình của
anh là Cô Năm Phỉ, đào chánh, đã buồn bã ra đi.
Trong khi
ông đi tìm đào thay cho Năm Phỉ thì có người nói với ông rằng “Trong lò gạch của
ông Bang Hoạch có con bé xẩm lai hát còn mùi hơn cô Năm Phỉ”. Ông không tin
nhưng vẫn tìm đến để cầu may. Nhưng ngay từ hôm đầu tiên đứng ngoài cửa sổ lò gạch
trộm nhìn nghe cô hát, ông đã bị hốt hồn. Một lần, hai lần, rồi ba lần…, cứ đứng
lặng người nhìn cô say sưa hát, tiếng hát thanh cao, khi trầm khi bổng, khi quặn
thắt lòng người, đôi mắt cứ lững lờ, rười rượi nỗi sầu tư, chơi vơi trong cõi
hư vô khiến cho ông Hai như muốn thốt lên rằng, con ơi, con không chỉ
là một thiên thần bé bỏng mà là dấu hiệu của một tài năng.
Bà Mai
không bằng lòng cho con mình đi theo Tái Đồng Ban bởi hai lẽ: Thứ nhất, Cô Bảy
chỉ mới mười ba tuổi; thứ hai, mới mười ba tuổi mà đã dấn thân vào con đường
“xướng ca vô loài” thì ắt phải hổ danh trong cái nhìn phong kiến lúc bấy giờ.
Nhưng Cô Bảy thì cương quyết: “Con không chịu nổi cái lò gạch, con phải
đi hát để có tiền nuôi mẹ, ai cười chê mặc kệ, họ cười chê chớ họ có giúp mình
đâu khi mẹ đói, mẹ đau”.
Ông Hai ra
giá tám cắc bạc cho mỗi đêm hát, ngày nuôi hai bữa cơm. Cô Bảy nghe mà mừng
trong bụng khi nghĩ đến cái thực tại ngồi ép gạch suốt ngày chưa được một cắc,
cơm thì bữa đói bữa no, mẹ ốm đau không đủ tiền mua thuốc, nợ nần chồng chất
không biết trả đến kiếp nào. Cô nói với ông Hai: “Con đồng ý nhưng xin ông hai
điều kiện: Thứ nhất ông cho mẹ con theo gánh hát để con chăm sóc; thứ hai, ông
cho con mượn trước năm mươi đồng để mẹ con trả nợ”.
Từ cái ngả
rẽ bất ngờ của buổi chiều hôm ấy, Cô Bảy Phùng Há trở thành đào chánh của Tái Đồng
Ban thay cho Cô Năm Phỉ và nổi danh với nhân vật Thúy Kiều. Năm ấy, năm 1924,
cô mới tròn mười ba tuổi. Từ một quyết định giản đơn: “Đi hát để kiếm tiền nuôi
mẹ”, Cô Bảy Phùng Há đã trở thành ngôi sao sáng rực của bầu trời sân khấu cải
lương, và, cũng chính cô là người đã góp sức, góp công, góp cả lòng tâm huyết để
nâng niu, nuôi dưỡng nền nghệ thuật nầy từ buổi sơ khai cho đến lúc trưởng
thành, đứng trên đỉnh vinh quang.
Hơn nửa thế
kỷ đắm mình với ánh đèn sân khâu, làm rạng rỡ tên tuổi của hàng chục đoàn hát,
từ Tái Đồng ban đến Trần Đắc, Huỳnh Kỳ, Phụng Hảo, Phước Cương, Thầy Năm Tú, Việt
Kịch Năm Châu…, hóa thân với hàng trăm nhân vật, mà nhân vật nào, dù nam hay nữ,
dù danh tướng hay mỹ nhân cũng được Cô Bảy Phùng Há cũng lột tả đến tận cùng
tính cánh và số phận. Oai phong, lẫm liệt với Lữ Bố, Phạm Lãi, An Lộc Sơn; đằm
thắm, kiêu sa, ngọt ngào, ai oán với Vương Thúy Kiều, với Nguyệt Nga, với Dương
Quý Phi, với Tô Ánh Nguyệt…
Những mề-đai,
Huân chương, Huy chương của Chính phủ Pháp, của Toàn quyền Đông Dương, của Thống
đốc Nam kỳ, của Vua Bảo Đại, Vua Miên, Vua Lào, Vua Thái Lan, của Trung Hoa,
Hungagi, Ba Lan, Anh, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Bồ Đào Nha, Tiệp Khắc…
chứng tỏ một tài năng sân khấu cải lương đã vượt không gian quốc gia, làm rạng
rỡ nền nghệ thuật nước nhà.
Thế nhưng
“hồng nhan đa truân”, cuộc đời bà không có mối tình nào trọn vẹn. Ngay từ những
năm đầu đến với Tái Đồng Ban, sắc đẹp của bà đã làm ngẩn ngơ hai người thầy, một
người dạy ca và một người dạy diễn: Huỳnh Thủ Trung và Năm Châu. Khi Năm Châu
đang ôm mối tình câm chưa kịp nói ra thì Huỳnh Thủ Trung tuyên bố cưới cô Phùng
Há. Năm Châu thất tình ra đi. Cô Bảy Phùng Há sống với Huỳnh Thủ Trung có một
người con rồi chia tay vì không chịu nổi người chồng suốt ngày ngồi trong quán
rượu, những chuyện ngoại tình, những trận đòn roi. Khi đang lưu lạc với một
đoàn cải lương ngoài Bắc, được tin Cô Bảy Phùng Há thôi chồng và chuyển qua
đoàn khác, ông Năm Châu trở về, tìm gánh hát Trần Đắc với hy vọng nối lại tình
xưa. Nhưng đò tình thêm một lần lỡ chuyến. Cô Bảy Phùng Há đã làm vợ của Bạch
Công Tử và lập gánh hát Huỳnh Kỳ.
Bà Phùng Há (ngồi) (file photo)
Bạch Công
Tử – tức Lê Công Phước, còn gọi là George Phước, con trai của Đốc Phủ sứ Mỹ Tho
Lê Công Sũng – sau khi chiếm được trái tim của Cô Bảy Phùng Há đã bỏ ra năm
trăm đồng trả nợ cho cô, chuộc cô ra khỏi gánh Trần Đắc, lập gánh Huỳnh Kỳ cho
cô làm chủ gánh.
Thời ấy,
giao thông cách trở, các gánh hát lưu diễn phải thuê ghe lườn vận chuyển sân khấu,
công nhân và đào kép. Bạch Công Tử đã trang bị cho Huỳnh Kỳ bốn chiếc ghe chài,
ba chiếc chở đồ đạc, đào kép và công nhân, một chiếc dành riêng cho đào chánh
kiêm chủ bầu Phùng Há với đầy đủ tiện nghi như một tòa lâu đài di động. Có tiền
bạc, có phương tiện, Cô Bảy Phùng Há chiêu mộ những đào kép nổi danh, Huỳnh Kỳ
thống lĩnh nghệ thuật sân khấu cải lương khắp Nam kỳ lục tỉnh.
Nhưng chỉ
được bảy năm, Bạch Công Tử sa vào con đường ăn chơi sa đọa, bao nhiêu tiền của
ông ném vào sòng bạc, tiệm hút, gái tơ. Huỳnh Kỳ suy sụp, đào kép lần lượt bỏ
đi, Cô Bảy ôm hai đứa con đau ốm cùng với bốn chiếc ghe chài nằm chơi vơi dưới
chợ cầu Ông Lãnh. Trong cảnh khốn cùng, một người quen giúp cô ẵm con đi tìm chồng
thì gặp Bạch Công Tử đang vui sống với một cô gái khác, một giai nhân nổi tiếng
tên là Marie Anne Nhị ở khách sạn Minh Tân. Ông không quan tâm đến con mà lại
trách mắng cô thiếu lịch sự, làm như thế là mất mặt ông với bạn gái của mình.
Cô nuốt nước mắt ra về. Rồi cả hai đứa con lần lượt chết trên tay cô trong cảnh
không tiền chạy chữa, cô đành phải chia tay với Bạch Công Tử để làm lại cuộc đời.
*****
Người chồng
thứ ba của Cô Bảy Phùng Há là kiến trúc sư Hoàng Phi, con trai một quan huyện ở
Gò Công, cũng là bạn thân với Bạch Công Tử. Sau năm 1945, Bạch Công Tử vừa bị
phá sản, vừa nghiện ngập, vừa lâm bệnh ngặt nghèo không tiền chạy chữa. Nghĩ đến
tình xưa nghĩa cũ, Cô Bảy xin phép chồng đem ông về nuôi dưỡng trong nhà tại số
3 đường Ngô Tùng Châu, Sài Gòn. Năm 1950, Bạch Công Tử qua đời trong cảnh không
có đất để chôn. Cô Bảy lại xin phép chồng đưa ông về an nghỉ trên đất nhà chồng
ở Gò Công, và nhờ người con riêng của chồng trông coi mộ.
Hỏi vì sao
cô chia tay với ông Hoàng Phi, cô không nói. Cô chỉ nói đó là một người trí thức
và tử tế. Với nghệ sĩ Năm Châu, Cô Bảy cho rằng đó là một chuyện tình buồn và đẹp,
cứ chập chờn, chập chờn như con đò lỡ chuyến suốt sáu mươi năm. Năm 1953, ngẫu
nhiên cô và Năm Châu đầu quân trở lại gánh Trần Đắc. Vở Mộc Quế Anh đã
đưa ngôi vị của Phùng Há-Năm Châu thành đôi bạn diễn ăn ý số một của sân khấu cải
lương.
Cô cảm nhận
đó là tình yêu, cả hai đã trút cạn tình yêu cho nhau qua vai diễn, những điều
khát khao mà chưa bao giờ được nói với nhau. Nhưng khi bước ra phía sau bức màn
nhung thì cô cảm nhận được ánh mắt chừng như mất vui, chừng như có chút hờn
ghen của nghệ sĩ Kim Cúc, bạn cô, cũng là vợ của nghệ sĩ Năm Châu. Biết lửa gần
rơm rồi sẽ cháy, cô rời gánh Trần Đắc, lặng lẽ ra đi để bảo vệ hạnh phúc của bạn
mình. Cô hiểu tình yêu của nghệ sĩ Năm Châu đối với cô càng ngày càng sâu nặng.
Ông viết những vở tuồng Nợ Dâu, Men Rượu Hương Tình, Sân Khấu Về Khuya như
để gởi gấm, để giải bày, như để hờn trách sự lạnh lùng, bạc bẽo của cô.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2022/06/k1-15390676719641371865518-640x372.jpg
Ông Năm Châu và bà Phùng Há (file
photo)
Ngày nghệ sĩ Năm Châu hấp hối, Cô chạy như
điên, lê lết trên từng bậc cầu thang trong bệnh viện. Bất chấp sự có mặt của mọi
người, cô ôm chầm lấy ông, cô gào thét: “Khoan, anh khoan hãy đi, anh
hãy nghe em nói rồi mới yên lòng ra đi, em biết anh hận em, nhưng em không phải
là kẻ vô tình, em làm như vậy là em hy sinh vì hạnh phúc của gia đình anh, vì vợ
con anh. Anh biết không, tới giờ phút nầy em vẫn yêu anh…”
Chồng,
con, và cả những người tình cũng lần lượt đi về bên kia thế giới. Theo thuyết
giáo của nhà Phật, khi ta sống, cái gì ta cho thì cái đó chính là tài sản, ở lại
với ta. Phải chăng, những thứ quý giá mà cô đã cho, đó chính là những vai diễn,
những môn sinh mà cô đã nhọc công đào tạo để làm nên một thế hệ cải lương vàng
son, vang bóng một thời. Một ngôi chùa Nghệ sĩ, một nghĩa trang nghệ sĩ với bốn
trăm ngôi mộ và gần bốn trăm bộ hài cốt, cô như người tự nguyện đi trước về
sau, níu kéo thời gian đến tuổi 99 để làm điều đó, làm cho trọn tình trọn nghĩa
với thế hệ mình và cả thế hệ cháu con. Phải, tất cả những gì mà cô đã cho, tất
cả đã và đang ở lại với cô, bây giờ và mãi mãi.
.
========================================
.
Chùa
Nghệ Sĩ được im lặng trả lại tên, ai cũng chối quanh
21 tháng 6, 2022
https://saigonnhonews.com/thoi-su/viet-nam/chua-nghe-si-duoc-im-lang-tra-lai-ten-ai-cung-choi-quanh/
No comments:
Post a Comment