Mỹ có
thể phong tỏa các thương vụ của Hoa Vi trên khắp thế giới?
Dani
Rodrik - Project-Syndicate
Dịch giả: Đỗ Kim
Thêm
14/09/2020
https://baotiengdan.com/2020/09/14/my-co-the-phong-toa-cac-thuong-vu-cua-hoa-vi-tren-khap-the-gioi/
Lời
người dịch: Bằng các hình thức gian manh hiện đại trong khuôn
khổ mậu dịch quốc tế, Trung Quốc ngang nhiên thực hiện các hoạt động gián điệp
và thao túng các phương tiện truyền thông xã hội, nhưng Mỹ và các nước phương
Tây không liên kết được một đối sách chung cho phù hợp để chống Trung Quốc.
Nhìn chung, phong trào bài Hoa lan tràn khắp nơi và
chuổi cung ứng sản phẩm công nghệ của Trung Quốc đang ngày càng suy yếu. Tính từ
tháng 5/2019 cho đến nay, Mỹ đã ra lệnh cho phong tỏa 152 chi nhánh của doanh
nghiệp Hoa Vi đang hoạt động trên 21 quốc gia. Và gần đây nhất, trong cuộc họp
với khối ASEAN, Mỹ đã kêu gọi hợp tác để phong tỏa hoạt động của 11 doanh nghiệp
Trung Quốc đang xây dựng các công trình tại Biển Đông.
Các biện pháp này của Mỹ khó khả thi cho dù các quốc
gia bị lệ thuộc kỹ thuật với Mỹ, nhưng sản phẩm của Hoa Vi có đặc điểm khác hẳn.
Quan trọng nhất là vì Mỹ vi phạm chủ quyền hoạt động độc lập kinh tế của từng
quốc gia và các quyền lợi khi đối tác với Hoa Vi là khác nhau. Do đó, các quốc
gia, dù có nguy cơ an
ninh quốc gia, tùy tình hình cụ thể, không nhất thiết phải hợp tác
với Mỹ để bài Hoa.
Mỹ không còn muốn nắm vai trò lãnh đạo trong các hợp
tác quốc tế và tôn trọng tinh thần tự do mậu dịch trong khuôn các luật lệ của
WTO. Các cường quốc phương Tây có lý do, Mỹ từ bỏ chủ thuyết đa phương để không
còn tin Mỹ quyết tâm lãnh đạo một sách lược bài Hoa cho một nền mậu dịch thế giới
được công bình hơn và cùng chung hưởng thịnh vượng, mà thực tâm là trên hết bảo
vệ cho nền kinh tế Mỹ.
Trường hợp của Việt Nam là thí dụ. Dù được Mỹ hậu
thuẫn chính trị để giải quyết vấn đề tranh chấp biển Đông, nhưng Việt Nam cũng
không hợp tác để phong tỏa Hoa Vi. Khối ASEAN cũng lâm vào tình trạng tương tự;
bản Tuyên Bố gần đây tại Hà Nội cho thấy, ASEAN không ủng hộ lập trường quyết
liệt của Mỹ. Mỹ quan tâm sâu xa về an ninh quốc gia, còn ASEAN thì không; ngược
lại, Việt Nam đang tự hào là vẹn toàn lãnh thổ bên cạnh Trung Quốc và không
quan tâm khởi động tố quyền trong tranh chấp biển Động với Trung Quốc. Đó là sự
dị biệt về nhận thức.
Vậy Việt Nam thật sự muốn gì nơi Mỹ? Mỹ nên xét xem
sự hợp tác nào mà Việt Nam hoan nghênh. Cuối cùng, điểm chủ yếu là Mỹ nên đưa
chính sách bài Hoa vào trong khuôn khổ điạ chính trị quy mô hơn để tạo niềm tin
trong sự hợp tác quốc tế.
***
Mỹ có
thể phong tỏa các thương vụ của Hoa Vi trên khắp thế...
Ngày nay, chế độ thương mại
quốc tế không được phác hoạ cho thế giới của dữ liệu, phần mềm và thông minh
nhân tạo. Vốn dĩ đã phải chịu áp lực nghiêm trọng từ sự trỗi dậy của Trung Quốc
và phản ứng dữ dội chống lại trào lưu siêu toàn cầu hóa, việc đối phó với ba
thách thức chính mà các công nghệ mới này đặt ra là hoàn toàn không phù hợp.
Chế độ thương mại quốc tế
mà chúng ta đang có, được thể hiện trong các luật lệ của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) và các hiệp định khác, nó không phải của thế giới này. Nó được thiết
kế cho một thế giới của ô tô, thép và dệt, không phải cho một thế giới của dữ
liệu, phần mềm và thông minh nhân tạo. Vốn dĩ đã phải chịu áp lực nghiêm trọng
từ sự trỗi dậy của Trung Quốc và phản ứng dữ dội chống lại trào lưu siêu toàn cầu
hóa, việc đối phó với ba thách thức chính mà các công nghệ mới này đặt ra là
hoàn toàn không phù hợp.
Đầu tiên, đó
là vấn đề địa chính trị và an ninh quốc gia. Các công nghệ kỹ thuật số cho phép các cường quốc nước ngoài xâm chiếm
các mạng lưới công nghiệp, thực hiện các hoạt động gián điệp trên không gian mạng
và thao túng các phương tiện truyền thông xã hội. Nga đã bị cáo buộc can thiệp
vào các cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác thông qua các trang
tin tức giả mạo và thao túng các phương tiện truyền thông xã hội. Chính phủ Mỹ
đã thẳng tay đàn áp doanh nghiệp khổng lồ Hoa Vi của Trung Quốc vì lo ngại rằng
mối liên hệ của doanh nghiệp này với chính phủ Trung Quốc khiến thiết bị viễn
thông của họ thành mối đe dọa an ninh.
Thứ hai, có
những lo ngại về quyền riêng tư của cá nhân. Các nền tảng thuộc Internet có thể thu thập một số lượng lớn dữ liệu về
những gì mọi người thực hiện trên mạng và ngoài mạng, và một số quốc gia có quy
định chặt chẽ hơn những quốc gia khác để điều chỉnh những gì họ có thể làm với
việc này. Ví dụ như Liên minh châu Âu đã đưa ra án phạt tiền đối với các doanh
nghiệp không bảo vệ các dữ liệu cho cư dân Liên Âu.
Thứ ba
liên hệ đến kinh tế học. Các công nghệ mới mang lại
lợi thế cạnh tranh cho các đại doanh nghiệp, nó có thể tích lũy quyền lực thị
trường to lớn trên toàn cầu. Các nền kinh tế về quy mô và phạm vi cũng như hiệu
ứng do mạng lưới tạo ra kết quả là có người toàn thắng và các chính sách trọng
thương cũng như các phương sách thực hành khác của chính phủ có thể dẫn đến việc
một số doanh nghiệp có những lợi thế không công bằng. Ví dụ, giám sát của nhà
nước đã cho phép các doanh nghiệp Trung Quốc tích lũy lượng dữ liệu khổng lồ, từ
đó giúp họ có thể chinh phục thị trường nhận dạng khuôn mặt trong toàn cầu.
Một phản ứng chung cho những
thách thức này là kêu gọi sự phối hợp quốc tế và các quy tắc toàn cầu rộng lớn
hơn. Hợp tác về lập quy xuyên qua nhiều quốc gia và các chính sách chống cạnh
tranh bất chánh có thể tạo ra các tiêu chuẩn và cơ chế thực thi mới. Ngay cả
khi một phương sách thực sự chung cho toàn cầu là không thể thực hiện – chẳng hạn
như vì các nước độc tài và dân chủ có những bất đồng sâu xa về quyền riêng tư –
thì các nền dân chủ vẫn có thể hợp tác với nhau và phát triển các quy tắc
chung.
Lợi ích của các quy tắc
chung là rõ ràng. Nếu không có nó, các cách thực hành như bản địa hóa các dữ liệu,
các đòi hỏi về cục bộ cho kỹ thuật cloud và phân biệt đối xử đem lợi cho các quốc
gia thành nhà vô địch, tất cả tạo ra sự kém hiệu quả kinh tế trong phạm vi phân
chia trong thị trường quốc gia. Chúng làm giảm lợi nhuận từ thương mại và ngăn
cản các doanh nghiệp thu được lợi ích do quy mô. Và các chính phủ phải đối mặt
với mối đe dọa thường trực rằng các quy định của họ sẽ bị phá hoại bởi các
doanh nghiệp hoạt động từ các hệ thống pháp lý với các quy tắc lỏng lẻo hơn.
Nhưng trong một thế giới
nơi mà các quốc gia có những ưu đãi khác nhau, các quy tắc toàn cầu – ngay cả
khi chúng là khả thi – theo nghĩa rộng hơn là không hiệu quả. Bất kỳ trật tự
toàn cầu nào cũng phải cân bằng lợi ích từ thương mại (tối đa khi các quy định
được hài hòa) đối nghịch với lợi ích từ sự đa dạng về các quy định (tối đa hoá
khi mỗi chính phủ quốc gia hoàn toàn tự do làm những gì mà họ muốn). Nếu trào
lưu siêu toàn cầu hóa đã tỏ ra mong manh, thì một phần là do các nhà hoạch định
chính sách đã ưu tiên cho những lợi ích từ thương mại hơn lợi ích của sự đa dạng
về lập quy. Sai lầm này không nên lặp lại với các công nghệ mới.
Thật ra, các nguyên tắc
hướng dẫn suy nghĩ của chúng ta về công nghệ mới không khác gì các nguyên tắc
dành cho các lĩnh vực truyền thống. Các quốc gia có thể đưa ra các tiêu chuẩn
quy định riêng và xác định các yêu cầu an ninh quốc gia của riêng mình. Họ có
thể làm những gì được yêu cầu để bảo vệ các tiêu chuẩn này và an ninh quốc gia
của họ, bao gồm thông qua các hạn chế thương mại và đầu tư. Nhưng họ không có
quyền quốc tế hóa các tiêu chuẩn của mình và cố gắng áp đặt các quy định của họ
lên các quốc gia khác.
Hãy xét đến các nguyên tắc
này sẽ áp dụng như thế nào đối với Hoa Vi. Chính phủ Mỹ đã ngăn chặn Hoa Vi mua
lại các doanh nghiệp Mỹ, hạn chế hoạt động tại Mỹ, khởi động các thủ tục pháp
lý chống lại giới lãnh đạo cấp cao của họ, gây sức ép buộc các chính phủ nước
ngoài không làm việc với Hoa Vi và gần đây nhất là cấm các doanh nghiệp Mỹ bán
các chip cho chuỗi cung ứng của Hoa Vi bất cứ nơi nào trên thế giới.
Có rất ít bằng chứng cho
thấy là Hoa Vi đã thay mặt cho chính phủ Trung Quốc tham gia công việc gián điệp.
Nhưng điều đó không có nghĩa là Hoa Vi sẽ không làm như vậy trong tương lai.
Các chuyên gia kỹ thuật phương Tây đã kiểm tra mã số của Hoa Vi và đã không loại
trừ khả năng này. Sự thiếu trong sáng trong các hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp ở Trung Quốc có thể làm che khuất các mối liên hệ của Hoa Vi với
chính phủ Trung Quốc.
Trong những trường hợp
này, lý do an ninh quốc gia để cho Hoa Kỳ – hoặc bất kỳ quốc gia nào khác – hạn
chế hoạt động của Hoa Vi trong phạm vi biên giới của mình là lập luận chính
đáng. Các quốc gia khác, kể cả Trung Quốc, không có khả năng xét lại quyết định
này.
Tuy nhiên, lệnh cấm xuất
khẩu đối với các doanh nghiệp Hoa Kỳ khó được biện minh vì lý do an ninh quốc
gia hơn là lệnh cấm đối với các hoạt động của Hoa Vi tại Hoa Kỳ. Nếu các hoạt động
của Hoa Vi ở các quốc gia thứ ba gây ra rủi ro an ninh cho các quốc gia đó, thì
chính phủ của họ có thẩm quyền nhất để đánh giá các rủi ro và quyết định xem việc
ngừng hợp tác hoạt động có phù hợp không.
Hơn nữa, lệnh cấm của Hoa
Kỳ phải đối mặt với hậu quả kinh tế nghiêm trọng đối với quốc gia khác. Nó tạo
ra những tác động bất lợi đáng kể cho các doanh nghiệp viễn thông quốc gia như
BT, Deutsche Telekom, Swisscom và những doanh nghiệp khác tại không dưới 170 quốc
gia dựa vào bộ dụng cụ và phần cứng của Hoa Vi. Có lẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất
là các quốc gia nghèo ở châu Phi, họ đang phụ thuộc quá nhiều vào thiết bị rẻ
hơn của doanh nghiệp.
Tóm lại, Mỹ
có tự do để đóng cửa thị trường của mình đối với Hoa Vi. Nhưng các nỗ lực của
Hoa Kỳ nhằm quốc tế hóa cuộc áp đặt các biện pháp trong nước của họ là thiếu
tính hợp pháp.
Vụ việc của Hoa Vi báo hiệu
về một thế giới trong đó các vấn đề an ninh quốc gia, quyền riêng tư và kinh tế
sẽ tương tác theo những cách phức tạp. Quản trị toàn cầu và chủ nghĩa đa phương
thường sẽ thất bại, vì cả lý do tốt và xấu. Điều tốt nhất mà chúng ta có thể
mong đợi là một sự chắp vá về quy định, dựa trên các quy tắc cơ bản rõ ràng
giúp ủy quyền cho các quốc gia theo đuổi lợi ích quốc gia cốt lõi của họ mà
không xuất khẩu vấn đề của họ cho người khác. Hoặc là chúng ta tự phác hoạ sự
chắp vá này, hoặc chúng ta sẽ kết thúc với một phiên bản lộn xộn, kém hiệu quả
và nguy hiểm hơn.
______
Dani Rodrik: Giáo sư Kinh tế Chính trị Quốc tế tại trường John F. Kennedy Khoa học
Công quyền, thuộc Đại học Harvard. Ông còn là tác giả sách “Straight Talk on Trade: Ideas for a Sane World Economy“.
* Người dịch đặt tựa đề
cho bản dịch
NGUỒN :
The
Coming Global Technology Fracture
Sep 8, 2020
No comments:
Post a Comment