Sunday, May 29, 2011

PHÁT TRIỂN : CUỘC ĐÁNH CÁ NGUY HIỂM CỦA TRUNG QUỐC (Nouriel Roubini)

Nouriel Roubini
Nguồn: Project -syndicate.org

Nguyễn Huy Đức chuyển ngữ
Chủ nhật, 29 Tháng 5 2011 16:28

LTS. Tình hình kinh tế Trung Quốc đã bắt đầu đi vào một tình trạng bấp bênh (cán cân thương mại thiếu hụt, tăng trưởng suy nhược, lạm phát tăng tốc, hiện tượng bong bóng địa ốc…). Dĩ nhiên không ai cầu mong những điều thiếu tốt lành cho một nên kinh tế quá liên thuộc với thế giới. Tuy nhiên phải nhìn nhận rằng, cơ cấu kinh tế Trung Quốc mang nhiều chứng tật và vi khuẩn có thể quật ngả con bệnh đang ở thời điểm cực cường.
Những chứng tật và vi khuẩn trên đã được kinh tế gia Nouriel Roubini trình bày trong một bài viết gần đây. Nouriel Roubini được mệng danh là Ông Đốc Thảm Họa (Dr. Doom) vì, ngay từ năm 2000, đã lớn tiếng dự báo cuộc khủng hoảng tài chánh xuất phát từ thị trường địa ốc Hoa Kỳ.

----------------------

Tôi vừa hoàn tất hai chuyến viếng thăm Trung Quốc (TQ) khi chính quyền Bắc Kinh công bố kế hoạch Ngũ niên lần thứ 12 với mục tiêu cân bằng hoá mô hình phát triển quốc gia trong trường kỳ.
Hai chuyến đi này đã giúp khai triển thêm quan điểm của tôi về mối nguy cơ bất ổn. Nguy cơ này xuất phát từ mâu thuẫn giữa những thành quả ngắn và dài hạn của nền kinh tế TQ.

Hiện nay, kinh tế TQ đang trong cơn sốt tăng trưởng. Thế nhưng, với hiện trạng đầu tư quá tải, kinh tế TQ sẽ đi vào tình trạng giảm phát với hệ luỵ lan tỏa trên toàn quốc và toàn cầu. Thật vậy, một khi không còn có thể tiếp tục gia tăng đầu tư cố định (fixed investment) – có lẽ sau 2013 – TQ sẽ vấp phải suy thoái nghiêm trọng. Thay vì tập trung tìm cách hạ cánh an toàn, giới chức trách TQ nên đặt trọng tâm vào bức tường kiên cố mà đà tăng trưởng kinh tế có nguy cơ đâm đầu vào, ở thời điểm thứ nhì của kế hoạch ngũ niên.

Mặc cho những lời lẽ cường điệu của kế hoạch ngũ niên – với mục tiêu, vẫn thường được lập đi lập lại từ trước đến giờ, tăng cường tỉ phần của tiêu thụ trong GDP – thói quen tránh né những cố gắng khó khăn sẽ khiến cho chuyện gì cũng sẽ trở về nguyên trạng. Thật vậy, kế hoạch ngũ niên lần này vẫn dựa vào chính sách đầu tư (gồm xây dựng các chung cư công) để kích thích phát triển thay vì chủ trương tăng nhanh giá trị đồng bạc (Nhân Dân Tệ), thay vì ban hành chính sách tái phân phối ưu tiên cho tư nhân, đánh thuế hay tư hữu hoá các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), nới lỏng hệ thống và thay vì hạ giảm mức kiềm chế trên tài chánh.

Trong vài thập niên qua, TQ đã đạt được phát triển cao nhờ vào nền kỹ nghệ chuyên về xuất khẩu và nhờ vào đồng bạc thấp giá. Hệ luỵ của chính sách này là tỉ lượng tiết kiệm cao của người dân và của các công ty. Nó cũng tạo ra mối lệ thuộc vào mức xuất khẩu ròng và vào mức đầu tư cố định (hạ tầng cơ sở, địa ốc, phương tiện công nghệ cho các xí nghiệp cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu (import-competing) và các doanh nghiệp xuất khẩu). Vào những năm 2008-2009, khi lượng xuất khẩu ròng suy giảm từ 11% xuống 5% GDP, nhà cầm quyền TQ đã phản ứng bằng tăng thêm tỉ phần của đầu tư cố định, từ 42% lên 47% GDP.

Chính vì lý do này mà TQ đã thoát khỏi cơn suy thoái – khác với Nhật, Đức và các quốc gia Á Châu vừa trỗi dậy vào năm 2009 - nhờ sự bùng nổ của đầu tư cố định. Tỉ phần của đầu tư trong GDP đã tăng nhiều hơn vào 2010-2011 và đạt gần đến 50%.

Vấn đề là không có đất nước nào có thể sinh lợi đủ để tái đầu tư 50% GDP vào trữ lượng cố định (capital stock) mà không lâm vào tình trạng công suất dư thừa (overcapacity) và thảm trạng nợ xấu choáng ngộp.

Tại TQ, nạn đầu tư quá tải (overinvetsment) đang hoành hành. Tài sản vật chất, hạ tầng và bất động sản ứ đọng thị trường. Hiện tượng này đập vào mắt du khách khi họ bắt gặp những phi trường mới toanh nhưng trống rỗng, những tàu tốc hành (loại tàu lửa này sẽ hạ giảm nhu cầu xây dựng 45 phi trường đã được trù định), những xa lộ không đi đến đâu, hàng ngàn toà nhà đồ sộ dành cho cơ quan nhà nước (trung ương hay địa phương), những thành phố ma và những lò nấu nhôm mới xây nhưng ngưng hoạt động để không phá giá sản phẩm này.

Các trung tâm thương mại và chung cư cao cấp đã được chiếu cố đầu tư một cách quá đáng. Số lượng sản xuất xe hơi cao hơn khả năng tiêu thụ, mặc dù lượng xe bán đã tăng cao gần đây. Công suất dư thừa trong ngành thép, xi-măng và các công nghệ khác tiếp tục tăng. Trong ngắn hạn, hậu quả của sự tăng vọt trong đầu tư sẽ tạo điều kiện cho lạm phát tái phát, nhất là khi sự nghiệp phát triển TQ dựa trên mô hình tận dụng nguyên liệu. Nhưng hiện tượng công suất dư thừa rồi sẽ gây ra sức ép giảm phát. Nó sẽ bắt đầu trong địa hạt công nghệ và địa ốc.

Cuối cùng, có lẽ là sau 2013, TQ sẽ phải hạ cánh trong tình trạng bất ổn. Mọi tiền lệ của tệ nạn đầu tư quá tải – kẻ cả trường hợp của Đông Á vào thập niên 1990 - đều kết thúc bằng một cuộc khủng hoảng tài chánh và/hoặc một thời gian phát triển yếu kém khá dài. Để tránh được định mệnh này, TQ cần hạ thấp lượng tiết kiệm, giảm thiểu đầu tư cố định, rút nhỏ tỉ phần của xuất khẩu ròng trong GDP và tăng cường tỉ phần của tiêu thụ.

Tiết kiệm cao và tiêu thụ thấp tại TQ là một đề tài mang tính chất cơ cấu. Phải cần hai thập niên cải cách mới mong thay đổi được động cơ thúc đẩy hiện tượng đầu tư quá tải.

Riêng về tỉ lệ tiết kiệm, những giải thích thông thường (thiếu vắng hệ thống an sinh, công vụ giới hạn, dân số đang lão hoá, tín dụng cho tiêu thụ kém phát triển v.v.) chỉ là một phần của vấn đề. Người Hoa ở lục địa không có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn người Hoa ở Hương Cảng, Tân Gia Ba hay Đài Loan. Tỉ lệ tiết kiệm của những người Hoa trên đây đều là 30% so với nguồn thu nhập. Khác biệt lớn nhất xuất phát từ tỉ phần của GDP dành cho các hộ tư nhân : Dưới 50%. Vì vậy người dân chẳng còn nhiều để tiêu thụ.

Ngoài ra, một số chính sách tại TQ đã đem lại một sự chuyển giao đồ sộ về thu nhập từ các hộ tư nhân (phần tử thấp cổ bé miệng) đến các công ty có thế lực và có uy quyền. Một đồng bạc với giá trị thấp sẽ thu nhỏ mãi lực của người dân vì hàng nhập cảng sẽ đắt đỏ hơn. Nhưng đồng thời, nó cũng bảo trợ DNNN cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu và nâng đỡ các công ty xuất khẩu.

Lãi suất thấp dành cho tiền gửi ngân hàng và tiền lời thấp dành cho các món nợ của doanh nghiệp và công ty xây dựng là hai yếu tố dẫn đến suất sinh lợi (Rates of return) thấp của lượng tiền tiết kiệm khổng lồ từ phiá người dân. Trong lúc đó phí tổn cho nợ vay (borrowing cost) của DNNN lúc nào cũng nằm trong tình trạng âm. Thực trạng này khiến các doanh nhân đầu tư không do dự (đầu tư quá tải) và gây ra hiện tượng tái phân phối tài sản từ các hộ tư nhân đến các DNNN. Thật ra, các DNNN này sẽ thua lỗ nặng nếu họ phải tài trợ các công trình đầu tư bằng nguồn vốn mà lãi suất được thị trường ấn định. Hơn nữa những cuộc trấn áp lao động đã gây ra tình trạng lương bổng tăng chậm hơn năng suất.

Để giảm áp chế trên nguồn thu nhập của các hộ tư nhân, TQ cần tăng nhanh tỉ lệ hối suất, thả nổi lãi suất và tăng lương nhiều hơn. Quan trọng hơn nữa, đối với DNNN, TQ cần có một trong hai thái độ sau. Hoặc là tư hữu hoá và làm như vậy lợi tức của DNNN sẽ trở thành thu nhập của người dân. Hoặc là đánh thuế cao hơn và tái phân phối số tiến thuế này sang các hộ tư nhân. Nếu không, lượng tiết kiệm của doanh nghiệp (hay nói cách khác, lợi tức được lưu lại trong công ty thay vì phân phát cho cổ đông) sẽ tiếp tay với lượng tiết kiệm đến từ tư nhân và sẽ gia tăng thêm 25% tỉ phần của tiết kiệm trong GDP.

Tuy nhiên, nâng cao tỉ phần thu nhập dành cho các hộ tư nhân có thể đem lại nhiều bất trắc lớn. Thật vậy, chính sách này có thể gây vỡ nợ cho các DNNN, các doanh nghiệp xuất khẩu và các chính quyền địa phương. Các đối tác kinh tế này có nhiều uy thế trên địa hạt chính trị. Chính vì vậy, TQ tiếp tục đầu tư nhiều hơn trong thời gian của kế hoạch ngũ niên vừa được ban hành.

Tiếp tục con đường phát triển bằng đầu tư sẽ trầm trọng hoá tình trạng dư thừa về phương tiện kỹ nghệ, về địa ốc và cơ sở hạ tầng. Hậu quả là mức suy thoái sẽ cường độ hơn trong tương lai, một khi không còn có thể gia tăng đầu tư cố định.

Từ giờ cho đến thời điểm thay đổi nhân sự chính trị chóp bu (2012-2013), giới chức trách TQ có thề giữ vững tỉ lệ phát triển. Nhưng cái giá phải trả, trong tương lai gần, sẽ rất cao.
Nouriel Roubini
Nguồn: Project -syndicate.org
Nguyễn Huy Đức chuyển ngữ

.
.
.

No comments: