Tại
sao tài phán hiến pháp ở Việt Nam lại không thành?
https://luatkhoa.com/2025/07/tai-sao-tai-phan-hien-phap-o-viet-nam-lai-khong-thanh/
Đe
dọa lợi ích chính trị của giới lãnh đạo và sự ổn định của chế độ.
Ngày
4/4/2025, Tổng thống Yoon Suk Yeol của Hàn Quốc đã bị
phế truất, trở thành tổng thống thứ hai trong lịch sử nước này bị loại khỏi
chức vụ. Sáng cùng ngày, hàng chục nghìn người dân Hàn Quốc đã tập trung trước
Tòa án Hiến pháp để chờ đợi kết quả của quá trình luận tội. Phán quyết của tòa
án có hiệu lực ngay lập tức và được thống nhất bởi toàn bộ tám thẩm phán.
Tòa
án hiến pháp có vẻ là một khái niệm xa lạ với nhiều người vì trong hệ thống
pháp luật Việt Nam hiện nay không tồn tại dạng tòa án này. Tuy nhiên, hơn một
thập kỷ trước khi không khí góp ý sôi nổi cho bản hiến pháp sắp ra đời năm
2013, chủ đề về “tài phán hiến pháp” (constitutional review)
là một trong những chủ đề được đưa ra cân nhắc thảo luận. Tuy vậy, ý tưởng này
đã nhanh chóng bị dập tắt.
Trong
bài viết này, người viết sẽ tóm tắt sơ lược về đề xuất thành lập cơ chế “tài
phán hiến pháp” tại Việt Nam trong giai đoạn soạn thảo hiến pháp năm 2013, các
thảo luận có liên quan và lý do vì sao nó đã không thành ở Việt Nam dựa trên
nghiên cứu “Tại sao các quốc gia quyết định không thực hiện tài phán hiến
pháp? Trường hợp của Việt Nam.” của giáo sư Bùi Ngọc Sơn. [1]
Tài
phán hiến pháp là gì ?
Tài
phán hiến pháp là một cơ chế hiến định được thiết kế nhằm xem xét, đánh giá
tính hợp hiến của các đạo luật, quyết định, và hành vi của các cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp tại một quốc gia. Đây là cơ chế quan trọng nhằm đảm bảo
các quy định, hoạt động của các cơ quan nhà nước là phù hợp với các nguyên tắc
và quy định của hiến pháp.
Nói
nôm na, giả sử như Việt Nam có một cơ chế tài phán hiến pháp độc lập như tòa án
hiến pháp chẳng hạn, thì những văn bản như Chỉ thị 20/CT-TTg của thủ tướng
chính phủ về lộ trình cấm xe máy sử dụng nhiên liệu hóa thạch tại Hà Nội có thể
được tòa hiến pháp xem xét lại tính hợp hiến của nó dựa trên các quyền hiến định.
[2]
Tùy
thuộc vào lựa chọn và tình hình chính trị tại mỗi nước, tài phán hiến pháp có
thể có những hình hài và tên gọi khác nhau. Thông thường, tài phán hiến pháp được
chia làm hai mô hình chính.
Một
là tài phán hiến pháp tập trung. Theo đó, cơ chế này được giao cho một cơ quan
chuyên trách đặc biệt đảm nhận thường được gọi là tòa hiến pháp hoặc hội đồng
hiến pháp tùy quốc gia. Dạng tòa án/hội đồng này hoạt động độc lập, không trực
thuộc bất kì một cơ quan/tổ chức nào và chỉ thực hiện một chức năng duy nhất:
xem xét tính hợp hiến của các đạo luật và quyết định hành chính. [3] Cơ quan
này có thẩm quyền xem xét trước hoặc sau khi một đạo luật hay phán quyết ra đời
và quyết định của nó mang tính ràng buộc chung, không thể xem xét lại. Mô hình
này phổ biến tại các quốc gia như Hàn Quốc, Đức, Pháp, Ý, v.v. và Viện Hiến
pháp được quy định trong Hiến pháp 1956 của Việt Nam Cộng hòa. [4]
Mô
hình phổ biến thứ hai là mô hình tài phán hiến pháp phi tập trung (hay phân
tán). Mô hình này không có một tòa án hay hội đồng hiến pháp chuyên biệt. Thay
vào đó, tất cả các tòa án ở các cấp đều có thể xem xét tính hợp hiến của một đạo
luật/quyết định. Mô hình này dựa trên nguyên tắc: khi một đạo luật ra đời, bản
thân nó phải hợp hiến, chính vì vậy mà mỗi tòa án đều có thẩm quyền xét tính hợp
hiến của nó. Khi đó, tòa án tối cao sẽ là tòa án có thẩm quyền cao nhất trong
việc xem xét một đạo luật có phải là hợp hiến hay không. [5] Mỹ là quốc gia nổi
tiếng với mô hình phi tập trung này. Dạng tài phán hiến pháp nói trên cũng được
áp dụng tại Việt Nam Cộng hòa, quy định trong Hiến pháp 1967. [6]
Một
trường hợp khác nữa là mô hình tài phán hiến pháp hỗn hợp như tại Brazil, bao gồm
tòa án chuyên biệt về hiến pháp và các tòa án thông thường vẫn có thể đảm nhiệm
chức năng xem xét tính hợp hiến của một đạo luật được ban ra. [7]
Tài
phán hiến pháp không phải là một cơ chế được ưa chuộng ở các quốc gia xã hội chủ
nghĩa. Hiến pháp tại các quốc gia xã hội chủ nghĩa không đơn thuần là một văn bản
pháp lý thông thường, nó còn là văn kiện mang tính chương trình, đóng vai trò
làm khuôn khổ cho việc thực hiện chủ nghĩa xã hội. Khi đó, các cơ chế tài phán
tư pháp “kiểu tư sản” thường bị xem như là một “thể chế phản động” (reactionary
institution). [8] Do đó, hầu hết các quốc gia xã hội chủ nghĩa (kể cả thời Liên
Xô) thường lựa chọn không thiết lập cơ chế tài phán này. Hoặc nếu có đi nữa thì
cơ quan này chỉ tồn tại ở quy mô một ủy ban trực thuộc chịu trách nhiệm tham vấn
cho cơ quan lập pháp. Đối với những trường hợp thành lập Tòa án Hiến pháp như của
Ba Lan(năm 1982), các kết luận của tòa cũng phải đệ trình lên cơ quan lập pháp
xem xét. [9]
No comments:
Post a Comment