Xu
hướng tự chủ chiến lược trong quan hệ quốc tế hiện nay
Vũ Lê Thái Hoàng, ThS. Trần Hà My - Tạp
chí Cộng sản
https://nghiencuuquocte.org/2022/10/26/xu-huong-tu-chu-chien-luoc-trong-quan-he-quoc-te-hien-nay/
Tình hình
thế giới, khu vực những năm gần đây chứng kiến nhiều biến chuyển sâu sắc, mau lẹ.
Mặc dù hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song các nhân tố khó
lường kèm theo nguy cơ, thách thức cũng gia tăng, đặc biệt là những hệ quả bất
lợi, đa chiều từ xu hướng cạnh tranh, kiềm chế phức tạp giữa các nước lớn. Để ứng
phó với tình hình mới, các nước dù lớn hay nhỏ hiện nay đề cập nhiều hơn tới
khái niệm “tự chủ chiến lược”, thậm chí xác định đây là phương châm chủ đạo,
lâu dài trong việc hoạch định chính sách đối ngoại. Đối với Việt Nam, việc
nghiên cứu về cách tiếp cận mới của các nước về khái niệm tự chủ chiến lược, đặc
biệt là của các nước nhỏ, nước tầm trung có thể mở ra nhiều gợi ý để thực hiện
hiệu quả hơn nữa các mục tiêu đối ngoại mà Đại hội XIII đã đề ra.
Vậy tự chủ chiến lược là gì?
Từ góc độ
ngôn ngữ, theo từ điển Oxford, “chiến lược” (strategic) liên quan đến việc nhận
diện các mục tiêu hay lợi ích lâu dài và các công cụ để đạt được các mục tiêu
đó; còn “tự chủ” (autonomy) phản ánh khả năng tự quản trị, sự độc lập, không bị
ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài. Như vậy, theo cách sơ lược nhất, có thể hiểu
tự chủ chiến lược (strategic autonomy) chỉ sự độc lập, tự lực của một chủ thể
trong việc xác định và thực hiện các mục tiêu và lợi ích quan trọng, dài hạn.
Trong quan
hệ quốc tế, nhiều chuyên gia, học giả đã cố gắng khái quát hóa và đưa ra nhiều
định nghĩa khác nhau về tự chủ chiến lược. Học giả Ấn Độ S. Kalyanraraman cho rằng
tự chủ chiến lược phản ánh khả năng một quốc gia trong việc theo đuổi, triển
khai chính sách đối ngoại phục vụ lợi ích quốc gia và các ưu tiên đã xác định
mà không bị ràng buộc, tác động bởi bất kỳ quốc gia nào khác.[2] Nói một cách ngắn gọn như nhà báo Ấn Độ
Sreemoy Talukdar thì tự chủ chiến lược là việc các nước đưa ra các lựa chọn chỉ
“đơn thuần dựa trên lợi ích quốc gia”.[3] Tuy nhiên, tự chủ chiến lược không có
nghĩa là tự cô lập, hay theo đuổi chính sách biệt lập, thực tế, tự chủ chiến lược
trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn hiện nay phản ánh sự độc lập của một quốc
gia trong việc lựa chọn các đối tác, tham gia các thoả thuận hợp tác để bảo vệ
và thực hiện các mục tiêu/lợi ích một cách nhanh chóng, hiệu quả hơn.
Một số học
giả khác nhấn mạnh nhân tố giá trị và tiềm lực như một biểu hiện của tự chủ chiến
lược. Nathalie Tocci – người được coi là một trong các chuyên gia đầu tiên đề cập
tới khái niệm tự chủ chiến lược của Châu Âu cho rằng tự chủ chiến lược “là việc
thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược trong khi duy trì, bảo vệ được các
nguyên tắc, chuẩn mực và giá trị của chính mình”.[4] Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập
sâu rộng hiện nay, một quốc gia có tính tự chủ chiến lược cao nghĩa là quốc gia
đó có khả năng thiết lập, điều chỉnh và thực thi các quy tắc/luật chơi quốc tế,
thay vì chỉ tuân thủ thụ động luật chơi được do người khác đặt ra.[5]
Trong khi
đó, nhóm tác giả Barbara Lippert, Nicolai von Ondarza và Volker Perthes trong
nghiên cứu “Tự chủ chiến lược Châu Âu: Chủ thể, Các vấn đề, Xung đột và Lợi
ích” nhận định tự chủ chiến lược dùng để chỉ khả năng của một chủ thể trong việc
định hình các ưu tiên và có đủ tiềm lực tổng hợp về thể chế, chính trị, vật chất
để tự thực hiện các ưu tiên/quyết định đó mà không bị ảnh hưởng bởi bên thứ ba.
Chia sẻ quan điểm này, Evan Laksmana từ Viện nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế
Indonesia cho rằng một trong các nhân tố tác động trực tiếp đến sự tự chủ chiến
lược của một quốc gia về đối ngoại là yếu tố tiềm lực. Trong thế giới lưỡng cực
hay đa cực, nhất là dưới tác động của quá trình toàn cầu hoá, tự chủ chiến lược
có tính tương đối. Về mặt lý thuyết, chỉ có siêu cường trong thế giới đơn cực mới
thật sự có quyền tự chủ chiến lược tuyệt đối vì chỉ có siêu cường mới có sức mạnh
vượt trội về kinh tế, quân sự, công nghệ và sức mạnh mềm để kiềm chế, đối trọng
được áp lực từ các quốc gia khác.[6]
Như vậy,
các khái niệm về tự chủ chiến lược trong quan hệ quốc tế cho đến nay đều cơ bản
nhấn mạnh các thành tố chính là: (i) Sự độc lập của một quốc gia về ý chí
(trong việc đề ra lợi ích, mục tiêu, giá trị) và hành động (kiên định triển
khai và bảo vệ các các biện pháp để đạt được mục tiêu/lợi ích và giá trị đã đề
ra); (ii) Sự tích cực, chủ động trong triển khai đối ngoại, tập hợp lực lượng
và thích ứng, định hình luật chơi để tạo dựng môi trường chiến lược thuận lợi
nhất; (iii) Tối đa hóa sức mạnh tổng hợp, trong đó nội lực đóng vai trò quyết định
của một quốc gia để bảo vệ/triển khai hiệu quả các chiến lược, chính sách.
Các nhân tố tác động tự chủ chiến lược
Từ các
thành tố chính về khái niệm, có thể thấy để có khả năng tự chủ về chiến lược,
trước tiên, một quốc gia cần có ý chí chính trị và tiềm lực về để triển khai
các quyết tâm của mình. Theo học giả Frédéric Mauro, công thức lý tưởng tạo nên
tự chủ chiến lược của một quốc gia bao gồm đồng thời cả ba yếu tố ý chí chính
trị, khả năng tự quyết định và khả năng hành động. Đồng tình với quan điểm này,
Sven Biscop cho rằng, một quốc gia dù có tiềm lực mạnh đến đâu, song nếu thiếu
đi nhận thức, ý chí về tự chủ thì sẽ không bao giờ tự quyết định hoặc hành động
một cách tự chủ được.[7] Trên thực tế, có rất nhiều quốc gia tầm
trung, tiềm lực còn hạn chế song ngày càng thể hiện được các quyết định độc lập
dựa cơ sở lợi ích quốc gia của mình, cho dù các quyết định đó có thể gặp phải sức
ép lớn từ các cường quốc khác.
Cùng với ý
chí chính trị và khả năng tự quyết, thì sức mạnh/nguồn lực của một quốc gia là
yếu tố quyết định tới việc hiện thực hoá các quyết định/mục tiêu đề ra.[8] Sức mạnh tổng hợp (bao gồm sức mạnh cứng,
sức mạnh mềm) càng lớn sẽ giúp các quốc gia khẳng định chỗ đứng của mình trên
trường quốc tế, tối đa hoá khả năng hành động độc lập, và bảo vệ hiệu quả giá
trị, lợi ích của mình trên thế giới.[9] Tuy nhiên, sức mạnh của một chủ thể trong
quan hệ quốc tế không chỉ được biểu hiện qua các chỉ số sức mạnh cứng như tăng
trưởng kinh tế, mức độ đầu tư quân sự, mà còn vào mức độ tự chủ, tự cường, tự
chống chọi của chủ thể đó trong các lĩnh vực trọng yếu, đặc biệt là trong tình
huống xảy ra khủng hoảng, đứt gãy chuỗi cung.
Bên cạnh
các nhân tố chủ quan, chiều hướng phát triển của cục diện quốc tế, đặc biệt là
cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, khủng hoảng của chủ nghĩa đa phương
toàn cầu, khu vực, xu hướng đánh giá lại toàn cầu hoá, phong trào dân tuý và dịch
COVID-19 cũng là những nhân tố tác động lớn, đẩy nhanh hơn quá trình nhận thức
và thúc đẩy các quốc gia tăng cường tự chủ chiến lược.
Khái niệm
tự chủ chiến lược trên thực tế đã bắt đầu được nhắc khi Mỹ – Trung bước vào
giai đoạn chuyển đổi trạng thái sang cạnh tranh từ nhiệm kỳ II của Tổng thống
Obama.[10] Dù vậy, kể từ khi Mỹ xác định Trung Quốc
là “đối thủ cạnh tranh chiến lược hàng đầu” dưới Chính quyền Trump đến nay, kéo
theo tình trạng phân tách trên nhiều lĩnh vực công nghệ, thương mại, chuỗi
cung, các căng thẳng về ngoại giao – chính trị thì nhu cầu tự lực, tự cường
trong các lĩnh vực trọng yếu trở nên cấp thiết hơn. Hiện nay, khủng hoảng Nga –
Ucraina và những hệ lụy về an ninh năng lượng, sự đứt gãy về đầu tư, tài chính
và việc các nước lớn thúc đẩy tập hợp lực lượng mới càng làm cho tự chủ chiến
lược trở thành một chủ đề, một xu hướng mới ngày càng nhiều quốc gia theo đuổi
để tránh nguy cơ bị rơi vào thế kẹt và có thể xử lý hài hoá quan hệ giữa các nước
lớn.
Bên cạnh
đó, mặc dù toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển song do tác động
của các phong trào dân tuý, dân tộc cực đoan, một số mặt trái đã bị phơi bày
như chuỗi cung cồng kềnh, sự nổi lên của các vấn đề an ninh phi truyền thống
như khủng hoảng nhập cư, an ninh mạng, khủng bố trong bối cảnh cạnh tranh chiến
lược giữa các nước lớn diễn biến phức tạp khiến các quốc gia, ngay cả các nước
lớn cũng phải điều chỉnh, tìm cách cân bằng tốt hơn việc tận dụng các nguồn lực,
lợi thế toàn cầu và đảm bảo mức độ tự lực cần thiết. Đặc biệt, dịch bệnh
COVID-19 là chất xúc tác khiến cạnh tranh giữa các nước lớn trở nên nghiêm trọng
hơn, đồng thời, phơi bày sự lệ thuộc của các nước vào các chuỗi cung ứng nước
ngoài về dược phẩm, làm nảy sinh nguy cơ đứt gãy chuỗi cung do chính sách kiểm
soát biên giới, đóng cửa nền kinh tế của các nước để đối phó với dịch bệnh, thậm
chí phục vụ mục tiêu cạnh tranh chiến lược. Chính vì vậy, nhu cầu tự chủ trong
các lĩnh vực chiến lược liên quan đến sự sống còn của đất nước trong tình huống
khủng hoảng trở nên cấp bách và quan trọng hơn đối với nhiều quốc gia.
Thực tiễn tự chủ chiến lược của một số quốc
gia
.
Ấn Độ
Nhìn suốt
chiều dài lịch sử phát triển, Ấn Độ là một trong số ít các quốc gia thể hiện bản
sắc riêng về đối ngoại, trong đó yếu tố tự cường, tự chủ chiến lược được thể hiện
tương đối rõ nét. Sreeram Chaulia nhận định dù trong thời kỳ trật tự thế giới
lưỡng cực (1947 – 1991), đơn cực (1991 – 2008) – khi Mỹ bước vào một chu kỳ dài
của sự suy thoái kinh tế và Trung Quốc dần tiếp cận Mỹ về sức mạnh tổng lực),
hay thế giới đa cực (hiện tại), nhu cầu tự chủ trong các lựa chọn chính sách đối
ngoại của Ấn Độ vẫn tiếp tục được duy trì.[11]
Trên cở sở
thực tiễn các phát biểu của chính giới Ấn Độ, nội hàm của khái niệm tự chủ chiến
lược được định hình và phát triển theo thời gian. Sau chiến tranh Lạnh, đặc biệt
là sau các vụ thử vũ khí hạt nhân năm 1998, các quan chức Ấn Độ thường xuyên sử
dụng tự chủ chiến lược nhằm khẳng định việc không chấp nhận sức ép của các nước
trước việc phát triển vũ khí hạt nhân vì lý do an ninh quốc gia. Trong bài phát
biểu trước Quốc hội, Tổng thống Ấn Độ K. Narayanan (10/1999) khẳng định “Ấn Độ
duy trì cam kết đối với vấn đề giải giáp hạt nhân toàn cầu dựa trên nền tảng
không phân biệt đối xử. Đồng thời, Chính quyền sẽ đảm bảo tự chủ chiến lược của
đất nước dựa trên những quan ngại chính đáng về an ninh và đánh giá về môi trường
an ninh quốc tế”.[12]
Sau này,
khái niệm tự chủ chiến lược được gắn trực tiếp nhiều hơn với các vấn đề đối ngoại.
Trong bài phát biểu của của Tổng thống Pratibha Patil (8/2011) và các báo cáo đối
ngoại của Quốc hội Ấn Độ, tự chủ chiến lược là nhân tố được nhấn mạnh đậm nét
khi nói về đường lối đối ngoại của Ấn Độ. Tư tưởng này được cụ thể hoá hơn
trong phát biểu của Ngoại trưởng Salman Kurshid (11/2013), cho rằng “trong quá
khứ Ấn Độ duy trì chính sách không liên kết, hiện nay, Ấn Độ theo đuổi lập trường
chiến lược về tự chủ”. Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi sau đó đã có nhiều phát biểu
giải thích rõ ràng hơn, cho rằng Ấn Độ đang chuyển từ chính sách không liên kết
một cách thụ động trong qua khứ, trở thành một nước chủ động liên kết, hợp tác
trong từng vấn đề; đồng thời nhấn mạnh trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập
ngày càng cao việc “mở rộng đối tác chính là một biện pháp tự chủ chiến lược”. [13] Như vậy có thể thấy, tự chủ chiến lược
trong các phát biểu chính sách của Ấn Độ nổi lên hai nét lớn: (i) Xác định rõ
các lĩnh vực trọng yếu cần thúc đẩy, bảo vệ, kiên định trước sức ép của các nước
lớn; (ii) Từ chỗ duy trì chính sách trung lập một cách thụ động, chuyển sang
chính sách chủ động lựa chọn các đối tác, vấn đề thúc đẩy hợp tác, phục vụ lợi
ích quốc gia.
Thực tiễn
triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ trong những năm qua thể hiện rõ tư
duy trên về tự chủ chiến lược, đặc biệt trong cách ứng xử của Ấn Độ trong xử lý
quan hệ với các nước lớn.Trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn gia tăng, Ấn Độ
khéo léo thúc đẩy hợp tác với từng nước trong các lĩnh vực có lợi ích, song duy
trì nguyên tắc độc lập, không liên minh, liên kết và không ngại bảo vệ lập trường
khi cần thiết. Ấn Độ chủ động tham gia và đóng vai trò thành viên tích cực
trong Nhóm Bộ Tứ do Mỹ khởi xướng, công khai chia sẻ nhiều giá trị mà Mỹ thúc đẩy
trong chiến lược với khu vực. Sự tham gia của Ấn Độ vào Nhóm bộ Tứ và mới đây
là IPEF không những giúp Ấn Độ nâng cao vị thế quốc tế, phục vụ chính sách Hướng
Đông, mà còn đưa Ấn Độ trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng về
cơ sở hạ tầng, năng lượng, thương mại, y tế trong cùng với các cường quốc phát
triển hàng đầu như Mỹ, Nhật Bản, Australia. Bên cạnh đó, Ấn Độ cũng tham gia
tích cực và có chọn lọc vào một số cơ chế do Trung Quốc khởi xướng như BRICS nhằm
tăng thế chiến lược trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc, đồng thời, tận dụng lợi
thế của BRICS trong vấn đề khủng bố tại Nam Á, tăng cường khả năng tiếp cận thị
trường của Ấn Độ tại Châu Á. Trong lúc thúc đẩy khéo léo quan hệ với các nước lớn,
Ấn Độ cũng thể hiện thái độ kiên quyết bảo vệ lợi ích của mình, tiếp tục hoàn tất
tiếp nhận hệ thống phòng không S-400 từ Nga – đối tác quốc phòng truyền thống số
1 của Ấn Độ bất chấp sức ép trừng phạt từ Mỹ; Ấn Độ cũng tiếp tục đã quyết định
bỏ phiếu trắng hoặc chống trong một số dự thảo nghị quyết lên án Nga ở Liên Hợp
quốc liên quan đến “chiến dịch quân sự đặc biệt” của Nga tại Ucraina; tiếp tục
tăng mạnh việc mau dầu thô từ Nga[14] và khẳng định không chính trị hoá các
giao dịch dầu hợp pháp của Ấn Độ. Bên cạnh đó, Ấn Độ cũng tăng tự chủ chiến lược
trước Nga về nguồn cung vũ khí bằng cách đa dạng hóa, tăng tỷ trọng nhập vũ khí
từ Mỹ để giảm sự phụ thuộc vào Nga về nguồn cung. Riêng 10 năm qua, từ 2012 –
2022, Ấn Độ đã nhập khoảng 13 tỷ USD khí tài quân sự Mỹ, qua đó hạ tỷ lệ mua vũ
khí, khí tài quân sự từ Nga xuống chỉ còn khoảng 50-60% tỷ trọng nhập khẩu vũ
khí, khí tài từ nước ngoài của Ấn Độ.[15]
.
Liên minh Châu Âu (EU):
Tự chủ chiến
lược ban đầu được đề cập trong các thảo luận của EU gắn liên với việc cần thúc
đẩy năng lực quân sự. Thông cáo của Ủy ban kinh tế – xã hội Nghị viện EU (2013)
nhấn mạnh “Châu Âu cần có trách nhiệm đối với an ninh của chính mình và đối với
hoà bình, ổn định của thế giới. Điều này đòi hỏi Châu Âu cần có mức độ tự chủ
nhất định, Châu Âu cần là một đối tác tin cậy và có đủ khả năng hành động mà
không cần phụ thuộc vào bên thứ ba”.[16] Hội đồng Châu Âu sau đó đã nâng tầm và cụ
thể hoá các lĩnh vực cụ thể để tăng cường tính tự chủ của EU trong lĩnh vực quốc
phòng an ninh. Chiến lược Toàn cầu EU (2016) khẳng định “Tự chủ chiến lược là
nhân tố quan trọng đối với mục tiêu đảm bảo hoà bình, an ninh trong và ngoài
biên giới của các nước EU. Do vậy, EU sẽ tăng cường năng lực về quốc phòng, an
ninh mạng, chống khủng bố, năng lượng. Một nền quốc phòng ổn định, đổi mới và cạnh
tranh mang ý nghĩa sống còn đối với sự tự chủ chiến lược của EU”.[17] Trước những thay đổi tình hình thế giới,
đặc biệt là đại dịch COVID-19 bộc lộ nguy cơ đứt gãy chuỗi cung và cạnh tranh
gia tăng giữa các nước lớn, nhu cầu tăng cường tự chủ chiến lược của EU trong
các lĩnh vực khác bắt đầu được quan tâm, chú trọng nhiều hơn. Đại diện cấp cao
của EU về chính sách đối ngoại và an ninh Josep Borell nhiều lần nhấn mạnh tự
chủ chiến lược không nên chỉ được hiểu một cách hạn hẹp trong lĩnh vực quốc
phòng – an ninh, mà còn trong nhiều lĩnh vực khác như thương mại, tài chính và
đầu tư, y tế.[18] Điều này không đồng nghĩa với cổ suý cho
chủ nghĩa bảo hộ mà là để bảo vệ độc lập chính trị, làm chủ các quyết định và
tương lai của mình.[19] Tháng 3/2022, Tuyên bố Versailles của Hội
nghị Thượng đỉnh Châu Âu đã chỉ ra định hướng chiến lược mới cho hoạt động của
EU,[20] trong đó nhấn mạnh việc Châu Âu sẽ tăng
cường tự chủ, giảm phụ thuộc, nhất là với các đối thủ cạnh tranh trên 3 trụ cột
là an ninh – quốc phòng, năng lượng và kinh tế.
Như vậy,
chính sách tự chủ chiến lược của EU chú trọng việc thúc đẩy năng lực và giảm sự
phụ thuộc của EU trong các lĩnh vực trọng yếu nhằm đảm bảo sự chủ động và độc lập
trong các quyết sách, gồm đối ngoại.
Trong thời gian qua, EU đã có nhiều nỗ lực nhằm hiện thực hoá chính sách này. Một
ví dụ điển hình là việc EU thông qua Định hướng chiến lược về An ninh và Quốc
phòng (tháng 3/2022), quyết định thiết lập lực lượng phản ứng nhanh gồm 5,000
quân giúp độc lập triển khai trong các tình huống khủng hoảng.[21] Cho đến nay, 21 trong số đó là thành
viên của EU là thành viên của NATO cũng đã cam kết dành 2% GDP của mình cho chi
tiêu quân sự vào năm 2024. Đa số chuyên gia cho rằng việc tự chủ hơn về quốc
phòng sẽ giúp EU chủ động, linh hoạt xử lý các khủng hoảng an ninh quốc tế, giảm
phụ thuộc vào quá trình thông qua quyết sách vốn mất nhiều thủ tục của NATO. Nhằm
giảm các rủi ro từ nguy cơ đứt gãy chuỗi cung cũng như sự phụ thuộc vào các đối
thủ cạnh tranh, EU cũng đã tích cực phối hợp với đồng minh là Mỹ, và đang thúc
đẩy hợp tác với các đối tác cùng chung chí hướng tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái
Bình Dương (thông qua chiến lược của EU với khu vực) hướng đến việc đa dạng hoá
chuỗi cung trên nhiều lĩnh vực quan trọng như công nghệ, y tế, thiết lập tiêu
chuẩn thương mại toàn cầu phù hợp với giá trị EU theo đuổi.
.
Indonesia:
Indonesia
là một trong các ví dụ được các chuyên gia, học giả quan tâm, đề cập tới nhiều
khi nhắc tới các hành xử theo hướng tự chủ chiến lược ở khu vực. Đa số gắn tự
chủ chiến lược của Indonesia với “nỗ lực can dự với các nước lớn, đồng thời duy
trì sự cân bằng năng động (dynamic equilibrium), độc lập, không ngả hẳn về bên
nào”.[22] Với nguyên tắc đối ngoại truyền thống “độc
lập và chủ động”, các quan chức cấp cao của Indonesia đã nhiều lần nhấn mạnh “Tất
cả các cường quốc đều là đối tác quan trọng và chiến lược đối với Indonesia.
Tuy nhiên, Indonesia sẽ không cho phép mình rơi vào thế bị ép buộc chọn bên”.[23] Đây cũng chính là phương cách giúp
Indonesia duy trì được sự tự chủ chiến lược trước sức ép từ các nước lớn.
Trên thực
tế, Indonesia có cách ứng xử khá thực tế, năng động, linh hoạt trong bối cảnh cạnh
tranh chiến lược nước lớn gia tăng. Tận dụng việc coi trọng của các nước lớn,
Indonesia chủ động can dự nhằm tranh thủ các nguồn lực phát triển đất nước,
dùng quan hệ với nước này để làm đòn bẩy với nước kia, thúc đẩy vai trò trung
gian, hòa giải, cầu nối đối thoại; [24] đồng thời kiên định duy trì nguyên tắc,
lập trường trong các vấn đề có lợi ích dù gặp phải sức ép. Ví dụ như với Trung
Quốc, Indonesia coi trọng quan hệ kinh tế – thương mại, sớm tỏ thiện chí và
tham gia nhiều các sáng kiến trọng điểm về kinh tế đối ngoại của Trung Quốc như
Ngân hàng hạ tầng Châu Á (AIIB), Sáng kiến Vành đai, Con đường (BRI). Tuy
nhiên, việc coi trọng hợp tác kinh tế không có nghĩa Indonesia sẽ nhân nhượng lợi
ích của mình.[25] Trong các thảo luận với phía Trung Quốc,
phía Indonesia nhiều lần nhấn mạnh việc hợp tác trong Sáng kiến BRI phải phù hợp
với các lợi ích của Indonesia trong chiến lược Trục hàng hải toàn cầu (GMF).
Trong vẫn đề an ninh biển, bất chấp các sức ép từ Trung Quốc, Indonesia tiếp tục
duy trì các dự án dầu khí tại vùng biển xung quanh quần đảo Natuna mà phía
Indonesia cho là thuộc Vùng Đặc quyền kinh tế hợp pháp của mình, đồng thời chủ
động hơn trong việc khẳng định lập trường ủng hộ luật pháp quốc tế tại Biển
Đông dù khẳng định không phải một bên tranh chấp. Với Mỹ, Indonesia tận dụng
thúc đẩy các lợi thế từ quan hệ Đối tác Chiến lược, nhất là việc nâng cao năng
lực quân sự, phục vụ kế hoạch hiện đại hoá quốc phòng. Nhiều năm qua, Mỹ đã phê
duyệt nhiều thương vụ bán, hỗ trợ vũ khí, khí tài quân sự hiện đại, có giá trị
lớn, tiến hành huấn luyện, tập trận, nâng cao năng lực thực thi pháp luật trên
biển cho Indonesia. Indonesia cũng là nước đầu tiên thúc đẩy việc ASEAN ra
Tuyên bố Tầm nhìn chung với khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (AOIP), chia
sẻ nhiều quan điểm giá trị với Chiến lược khu vực của Mỹ như mở, bao trùm, tôn
trọng luật pháp quốc tế, ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN. Tuy nhiên,
Indonesia cũng thể hiện thái độ phản đối rõ ràng với việc Mỹ – Anh – Úc thiết lập
Đối tác An ninh ba bên (AUKUS), cho rằng thoả thuận này sẽ châm ngòi cuộc chạy
đua vũ trang và làm suy giảm ổn định của khu vực. Trong khủng hoảng Ukraine, Tổng
thống Widodo tích cực phát huy vai trò hòa giải, sớm chấm dứt chiến tranh, giảm
thiểu tác động đến an ninh năng lượng và an ninh lương thực toàn cầu thông qua
chuyến thăm cả Ukraine và Nga cuối tháng 6/2022, đồng thời kiên trì vận động cả
Tổng thống Nga Putin và Tổng thống Ukraine Zelensky cùng dự Hội nghị thượng đỉnh
G20 tại Indonesia tháng 11 tới.
.
Một số hàm ý với các nước nhỏ, tầm trung
Hiện nay,
tình hình thế giới đang trải qua những biến động to lớn, phức tạp, Báo cáo
chính trị Đại hội XIII đã đưa ra một số dự báo tình hình quốc tế, trong đó có sự
đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn giữa các nước lớn; các quốc gia, nhất
là các nước lớn, điều chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc
vào bên ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng; cạnh tranh kinh tế, chiến tranh
thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực
chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết liệt,
tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu; các thách thức an ninh
phi truyền thống như dịch COVID-19 diễn biến phức tạp.[26] Trong bối cảnh ấy, thực tiễn phát triển
và triển khai chủ trương, chính sách tự chủ chiến lược của các quốc gia, có thể
thấy tinh thần của khái niệm tự chủ chiến lược cơ bản có nhiều nét tương đồng với
chủ trương, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa,
tích cực, chủ động hội nhập quốc tế của các nước nhỏ, tầm trung, trong đó có Việt
Nam.
Từ góc độ
lý luận và thực tiễn hoạch định, triển khai chính sách đối ngoại, tự chủ chiến
lược cho thấy một số điểm nhấn mạnh hơn:
Thứ nhất, mục đích của tự chủ chiến lược trước
hết là để giảm thiểu áp lực, thế bị động từ cạnh tranh nước lớn, ứng xử hiệu quả
với các lực kéo, đẩy, sức ép chọn bên, nguy cơ bị “kẹt”, duy trì thuận lợi nhất
môi trường chiến lược, an ninh và phát triển của quốc gia. Tự chủ chiến lược
cũng hàm ý năng lực độc lập, chủ động trong lựa chọn chính sách, phương thức tập
hợp lực lượng phù hợp (trung lập, không liên kết, cân bằng động, liên minh) phục
vụ tốt nhất cho lợi ích quốc gia – dân tộc trong những hoàn cảnh, điều kiện cụ
thể. Thực tế cho thấy nhiều nước nhỏ, tầm trung chủ trương không chọn bên mà
đưa ra các lựa chọn dựa trên lợi ích quốc gia – dân tộc, chọn lẽ phải, phù hợp
với luật pháp quốc tế.
Thứ hai, cách tiếp cận tự chủ chiến lược là
toàn diện, liên ngành, toàn chính phủ, kết hợp giữa tự cường nội lực và huy động
tối đa ngoại lực, trong đó nội lực là nền tảng, quyết định, đặc biệt trong các
lĩnh vực trọng yếu, liên quan đến an ninh quốc gia. Các nước chủ trương đảm bảo
hài hoà giữa tự chủ và hội nhập, xác định hội nhập quốc tế là xu thế khách
quan, nhưng trong hội nhập, “cần lấy nội lực là cơ bản, là nhân tố quyết định,
gắn với tranh thủ ngoại lực – nhân tố quan trọng, cần thiết, thường xuyên, đột
phá”.[27] Để củng cố nội lực, các nước ưu tiên đồng
bộ thể chế phát triển, xác định các lĩnh vực trọng yếu để tăng cường và củng cố
hơn nữa khả năng tự chủ như kinh tế, công nghệ, lương thực, năng lượng song
song với việc tìm kiếm cơ hội từ các đối tác tin cậy để đảm bảo chuỗi cung bền
vững trong các tình huống xảy ra khủng hoảng.
Thứ ba, tự chủ chiến lược không phải là và
không nên là biệt lập, trung lập cực đoan, bảo hộ dân túy, chạy đua vũ trang,
phổ biến hạt nhân mà trái lại càng phải đẩy mạnh đối ngoại, đan xen lợi ích, hội
nhập quốc tế chủ động, tích cực, linh hoạt, đa dạng hóa, đa phương hóa (đối
tác, thị trường, chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất, công nghệ…), chủ động thích ứng
và tham gia điều chỉnh, xây dựng, định hình các luật chơi chung trên cơ sở bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, đồng thời tôn trọng lợi ích chính đáng
của các quốc gia khác trên cơ sở luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc,
vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển chung.
Thứ tư, tự chủ chiến lược mở ra nhiều cơ hội
cho các nước nhỏ, tầm trung, nhất là trong việc đầu tư thúc đẩy các hình thức
ngoại giao chuyên biệt, hợp tác nhóm/tiểu đa phương, phát huy vai trò cầu nối đối
thoại, trung gian, hòa giải.[28]
-----------------------------
Bài viết
được đăng lần đầu trên Tạp
chí Cộng sản ngày 23/10/2022.
[1] *TS. Vũ Lê Thái Hoàng, Viện Nghiên cứu
Chiến lược và Ngoại giao, Học viện Ngoại giao
**ThS. Trần
Hà My, Vụ Châu Mỹ, Bộ Ngoại giao. Bài viết thể hiện quan điểm cá nhân của các
tác giả.
[2] S. Kalyanaraman (2015), Aravind
Devanathan asked: What is ‘strategic autonomy’? How does it help India’s
security?, https://idsa.in/askanexpert/strategicautonomy_indiasecurity
[3] Jeff M. Smith (2020), Strategic
Autonomy and US – Indian Relations, https://warontherocks.com/2020/11/strategic-autonomy-and-u-s-indian-relations/
[4] Nathalie Tocci (2021), European
Strategic Autonomy: What It Is, Why We Need It, How to Achieve It, https://www.iai.it/sites/default/files/9788893681780.pdf
[5]Barbara Lippert, Nicolai von Ondarza
and Volker Perthes (2019), European Strategic Autonomy Actors, Issues,
Conflicts of Interests, https://www.swp-berlin.org/publications/products/research_papers/2019RP04_lpt_orz_prt_web.pdf
[6] Evan A.Laksmana (2021), Southeast
Asian Militaries: The Need to Boost Strategic Autonomy, https://fulcrum.sg/southeast-asian-militaries-the-need-to-boost-strategic-autonomy/
[7] Nt.
[8]Vitor Bento (2022), Strategic Autonomy
and Economic Power, https://www.taylorfrancis.com/books/mono/10.4324/9781003248392/strategic-autonomy-economic-power-vitor-bento
[9]Suzana Anghel, Beatrix Immenkamp and
Elena Lazarou (2020), On the path to ‘strategic autonomy’, https://www.europarl.europa.eu/RegData/etudes/STUD/2020/652096/EPRS_STU(2020)652096_EN.pdf
[10] Trong thời gian này, Trung Quốc vươn
lên là cường quốc kinh tế số 2 thế giới, đưa ra một số điều chỉnh chính sách về
đối ngoại theo hướng từ bỏ “giấu mình chờ thời”; Chính quyền Tổng thống Obama đề
ra và triển khai chính sách Tái cân bằng, không không chấp nhận đề nghị của
Trung Quốc về xác lập mô hình “G2” hay “quan hệ nước lớn kiểu mới”.
[11] Sreeram Chaulia (2020), A self-reliant
foreign policy, https://www.thehindu.com/opinion/op-ed/a-self-reliant-foreign-policy/article32339890.ece
[12] Address to Parliament (1999), https://eparlib.nic.in/bitstream/123456789/4004/1/narayanan_25_10_1999.pdf#search=
[13] Jeff M. Smith (2020), Strategic
Autonomy and US – Indian Relations, https://warontherocks.com/2020/11/strategic-autonomy-and-u-s-indian-relations/
[14] Refinitiv ước tính 3,36 triệu tấn dầu
thô Nga đã đến Ấn Độ tháng 5/2022, gấp 9 lần trung bình tháng 5/2021.
[15] Tham khảo them PTI (2022), Russia’s
share of arms import to India fell from 69% in 2012-17 to 46% in 2017-21:
Report, https://economictimes.indiatimes.com/news/defence/russias-share-of-arms-import-to-india-fell-from-69-in-2012-17-to-46-in-2017-21-report/articleshow/90218483.cms?utm_source=contentofinterest&utm_medium=text&utm_campaign=cppst,
và U.S. Arms Sales to India (2022), https://www.forumarmstrade.org/usindia.html
[16] European Commission, Communication
from the Commission to the European Parliament, the Council, the European
Economic and Social Committee and the Committee of the Regions (2013), Note of
transmission from the General Secretariat of the Council to delegations, https://eurlex.europa.eu/legal-content/EN/TXT/PDF/?uri=CELEX:52013DC0542&from=EN
[17] (2016), Shared Vision, Common Action:
A Stronger Europe – A Global Strategy for the European Union’s Foreign and
Security Policy, https://eeas.europa.eu/topics/eu-global-strategy/17304/node/17304_fr
[18] Josep Borell (2020), Why European
strategic autonomy matters, https://eeas.europa.eu/headquarters/headquarters-homepage/90963/node/90963_en
[19] Josep Borell (2021), Europe’s
Watershed Year, https://www.project-syndicate.org/onpoint/europe-covid-response-and-future-agenda-by-josep-borrell-2021-01
[20] (2022), Informal meeting of the Heads
of State or Government
Versailles
Declaration, https://presidence-francaise.consilium.europa.eu/media/qphpn2e3/20220311-versailles-declaration-en.pdf
[21] EU (2022), A Strategic Compass for
the EU, https://eeas.europa.eu/headquarters/headquarters-homepage_en/89047/A%20Strategic%20Compass%20for%20the%20EU
[22] Tham khảo Evan A. Laksmana (2017),
Pragmatic Equidistance How Indonesia Manages Its Great Power Relations, https://static1.squarespace.com/static/57e3c9e1d1758e2877e03ba5/t/5bcf79f70d9297b3ea87f50b/1540323832548/Chp+-+Pragmatic+equidistance+-+NYU.pdf
và Julie McCarthy (2022), With U.S. focused on defense, China’s trade and
infrastructure sweep Southeast Asia, https://www.npr.org/2022/01/20/1073764647/us-china-southeast-asia-trade-defense
[23] Mangadar Situmorang (2020), Insight:
National resilience key to Indonesia’s foreign policy, https://www.thejakartapost.com/academia/2020/09/23/insight-national-resilience-key-to-indonesias-foreign-policy.html.
[24] Evan A. Laksmana (2017), Pragmatic
Equidistance How Indonesia Manages Its Great Power Relations, https://static1.squarespace.com/static/57e3c9e1d1758e2877e03ba5/t/5bcf79f70d9297b3ea87f50b/1540323832548/Chp+-+Pragmatic+equidistance+-+NYU.pdf
[25] Nt.
[26] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
(2021), https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-3734
[27] Toàn văn bài phát biểu của Thủ tướng
Phạm Minh Chính tại CSIS Hoa Kỳ (20221), https://www.vietnamplus.vn/toan-van-bai-phat-bieu-cua-thu-tuong-pham-minh-chinh-tai-csis-hoa-ky/789684.vn.
[28] Xem thêm Vũ Lê Thái Hoàng, Ngoại giao
chuyên biệt: Hướng đi, ưu tiên mới của Ngoại giao Việt Nam đến năm 2030, NXB
Chính trị Quốc gia Sự thật, 11/2020; Vũ Lê Thái Hoàng & Lê Trung Kiên, Cơ
chế hợp tác nhóm: Thực tiễn quốc tế và hàm ý chính sách đối với Việt Nam, Tạp
chí Cộng sản 3/2/2022, truy cập tại https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/824990/co-che-hop-tac-nhom–thuc-tien-quoc-te-va-ham-y-chinh-sach-doi-voi-viet-nam.aspx.
No comments:
Post a Comment