30/01/2020
Sự kiện về sự lan truyền của coronavirus (nCoV) tại
Trung Quốc và nhiều quốc gia đang khiến toàn thế giới lo ngại. Giữa muôn trùng
của thông tin và sợ hãi, trụ trì chùa Ba Vàng đăng tải thông tin về chương
trình “Tu tập hồi hướng hóa giải nạn dịch virus corona”. Trong đó, ông Thích
Trúc Thái Minh khẳng định” “…mọi thiên tai, dịch bệnh gốc là do ác nghiệp
của chúng sinh, đặc biệt là việc phá diệt Tam bảo, hủy hoại Phật pháp”.
Những tuyên bố có phần quá… tham vọng nói trên nhanh
chóng lọt vào tầm ngắm của cộng đồng mạng và hiển nhiên bị chỉ trích dữ dội.
Cùng lúc đó, với phong thái quản lý thông tin một cách triệt để, chính quyền địa
phương nhanh chóng can thiệp. Trao
đổi với phóng viên của báo Thanh Niên, một lãnh đạo Ủy ban Nhân dân
thành phố Uông Bí cho biết, địa phương này đã bố trí lực lượng chức năng giám
sát chùa Ba Vàng để đảm bảo chùa này hoạt động theo đúng tôn chỉ mục đích của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Riêng vị Phó Trưởng ban – Chánh thư ký Ban Trị sự
Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh – cũng cho biết Giáo hội cùng các
ban, ngành, chính quyền địa phương đã yêu cầu sư trụ trì phải gỡ bỏ các nội
dung, chương trình, đoạn clip trên mạng xã hội facebook
và website: chuabavang.com.
Hiển nhiên, nếu chưa nói đến những cân nhắc khoa học
và pháp lý, người viết hoàn toàn đồng tình với việc can thiệp kịp thời của
chính quyền địa phương, cũng như không có phản biện gì đối với những phản ứng của
cư dân mạng. Song nếu dành chút thời gian nghiền ngẫm lại, điều gì thật sự tách
biệt “tu tập hồi hướng hóa giải nạn dịch virus corona” với các
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo khác như tu tập để tiêu giải nghiệp chướng, để
lên thiên đàng, cầu nguyện để phụng sự một đức thánh nào đó, hay xin xăm, xin ấn
đền thần, tìm kiếm người thân, hiểu thêm về tương lai cuộc đời mình thông qua
ngoại cảm, kinh dịch… vốn vẫn đang được chấp thuận như là những hình thức thực
hiện tín ngưỡng, tôn giáo? Chẳng phải chúng đều dựa trên cùng một nền tảng lý
luận triết học vốn chưa được khoa học kiểm chứng về khái niệm và mối quan hệ giữa
nhân quả hay sao? Hay nói rộng hơn, khái quát hơn, điều gì giúp chúng ta phân
biệt giữa mê tín dị đoan và tôn giáo, niềm tin tôn giáo? Hay ở khía cạnh cụ thể
hơn, khi nào cộng đồng nên phản đối một phong trào, một hành vi tín ngưỡng tôn
giáo; khi nào cộng đồng không nên can thiệp vào chúng?
***
Khái niệm mê tín dị đoan (hay thuật ngữ tiếng Anh
là superstition) đã được các học giả khoa học xã hội trên toàn thế
giới nghiên cứu khá nhiều. Dù mỗi nhóm có một định nghĩa khác nhau, người viết
tạm lấy khái niệm được ghi
nhận bởi Khoa Lý thuyết học của trường Đại học Oslo, Na Uy bởi sự ngắn
gọn, tính khái quát cao và thẳng vào trọng tâm của định nghĩa này. Theo đó, họ cho
rằng mê tín dị đoan là những niềm tin hay thực hành dựa trên những hiểu biết
sai lầm về tự nhiên (Nature) và quan hệ nhân quả (Causality), ví dụ như những
niềm tin không được khoa học chứng minh.
Song đã có dẫn chứng khoa học nào bảo đảm được lý
tính của các niềm tin tôn giáo chính thống hay chưa?
Nghiên cứu thiên văn, vật lý, sinh học hay địa chất
nào dám cho rằng Thượng đế tạo nên vạn vật, và tạo ra loài người bắt đầu với
Adam và Eve?
Nghiên cứu y khoa và sự sống nào đã ủng hộ thuyết
Luân hồi và Nhân quả?
Nghiên cứu lịch sử nào minh chứng rằng Chúa trời đã
nhờ đến nhiều người đưa tin đến địa đàng gồm Abraham, Moses và Jesus? Còn
Mohammad là người đưa tin cuối cùng và chính xác nhất của Chúa?
Khi nói về niềm tin tôn giáo hay tín ngưỡng, người
viết tin rằng dùng đến khoa học để phân loại chúng không phải là cách tốt nhất.
Trong khi đó, các giả thuyết mà bản thân người viết tổng hợp được cũng không hẳn
thể hiện đầy đủ bản chất của sự khác biệt.
Giả dụ như thuyết bài ngoại chẳng
hạn (tên do người viết tự đặt), thường cho rằng những tín ngưỡng và niềm tin đến
từ bên ngoài, nằm bên ngoài phạm vi hiểu biết của mình thì tự nhiên là thứ mê
tín dị đoan, không đáng tin cậy. Như trong tác phẩm The
Soul of Black Folk xuất bản lần đầu tiên năm 1903 của
W.E.B. Du Bois, một nhà xã hội học và cũng là một nhà đấu tranh da đen trong
Phong trào Dân quyền Hoa Kỳ, đã bình luận như thế này bản chất cá nhân và tín
ngưỡng của người da đen:
“Giống Negro (một cách gọi người da đen mang tính
xúc phạm, nay đã không dùng nữa – ND)… là một chủng loài đậm chất tôn giáo (a
religious animal), loài luôn bị ám ảnh bởi cảm xúc tự nhiên, và theo bản năng
luôn hướng về các thế lực siêu nhiên. Thừa hưởng trí tưởng tượng nhiệt đới
phong phú và một sự hứng thú đặc biệt với thiên nhiên, đời sống Phi Châu đầy ắp
hình ảnh của thần thánh và ác quỷ, yêu tinh và phù thủy; đầy ắp những tác nhân
gây ảnh hưởng hết sức kỳ lạ đến đời sống thường nhật”.
Thuyết bài ngoại thật ra được xây dựng dựa trên nền
tảng của một niềm tin thượng đẳng hướng nội, rằng những yếu tố tâm linh quen
thuộc với họ thì lý tính, thì thuận lẽ phải và tự nhiên hơn, trong khi những
tín ngưỡng và niềm tin nằm ngoài phạm vi thẩm thấu của họ sẽ bị xem là mê tín,
là phi lý tính.
Ví dụ, để lý giải cho
việc cấm đạo Công giáo, cả Minh Mạng và Tự Đức đều quy cho đạo này là… mê tín,
dị đoan. Minh Mạng bảo: “Đạo Gia Tô nguyên từ người Tây Dương truyền bá
vào nước ta đã lâu; dân ngu phần nhiều bị mê hoặc mà không biết hối. Xét thuyết
thiên đường, tóm lại chỉ là hoang tưởng, không có bằng chứng. Hơn nữa, thuyết ấy
không kính thần mình, chẳng thờ tổ tiên, rất trái với chính đạo.” Ông
tự nhận đạo của mình là chính đạo, và thờ cúng tổ tiên là thuận theo lẽ trời;
riêng thuyết thiên đường thì không có bằng chứng. Song nếu thuyết thiên đường
đã bị liệt là dạng vô căn không bằng chứng, thì việc thờ cúng ông bà tổ tiên có
còn ý nghĩa hay nền tảng khoa học gì nữa hay không? Việc tin vào chính danh,
vua chúa, thần quyền và thiên tử… chẳng phải cũng trở thành mê tín đó hay sao?
Cách mà những người ủng hộ thuyết này tiếp cận vấn đề, đôi khi đúng, đôi khi
sai, nhưng có một điều cần thừa nhận là nó chưa đủ tính khách quan để có thể
xây dựng một quy chuẩn bài bản với mục tiêu phân biệt giữa tôn giáo và mê tín dị
đoan.
Thuyết thứ hai mà người viết có thể nghĩ đến, tạm gọi
là thuyết đồng thuận pháp lý, ám chỉ vai trò của nhà nước trong
quá trình phân định hoạt động tôn giáo và hoạt động mê tín dị đoan. Thuyết đồng
thuận pháp lý có thể cần phải đi khá xa về quá khứ, khoảng thế kỷ 16 – 17 tại
Vương quốc Anh, khi mà Luật Hoàng gia đưa ra quy
định nghiêm cấm việc “sử dụng một cách mê tín” (superstitious uses) các
khu vực tư nhân và tài sản tư nhân cho hoạt động thánh lễ hay nghi thức Công
giáo. Mong muốn của những quy định dạng này có vẻ chỉ nhằm giúp nhà nước và
giáo hội kiểm soát độc quyền các nghi thức và ý nghĩa của tôn giáo chính thống
nhà nước thời điểm đó (Anh giáo hay Anglicism), song nó cũng tạo nên một
thể loại thực hành tôn giáo bị cho là mê tín – những thực hành tôn giáo không
được nhà nước công nhận.
Cái thú vị của cách hiểu này là họ cho rằng tín ngưỡng
không phải là cái có trước, và sau đó nhà nước mới xem xét điều gì là lý tính để
phân loại thành tôn giáo hay mê tín dị đoan, mà hoàn toàn ngược lại. Cái gì mà
nhà nước công nhận, nó tự nhiên thành tôn giáo – tín ngưỡng được bảo vệ. Cái gì
mà nhà nước không công nhận, không ủng hộ thì tự nhiên bị biến thành dị đoan,
mê tín. Đây là một cách tiếp cận theo chủ nghĩa hiện thực, khiến cho việc phân
biệt một hành vi tôn giáo và một hành vi mê tín vô cùng dễ dàng: Hành vi nào
nào nhà nước không ngăn cấm (hay cho phép) thì sẽ được bảo vệ như là thực hành
tín ngưỡng tôn giáo; hành vi nào mà nhà nước không cho phép, không liệt kê vào
danh mục được thực hành thì là mê tín dị đoan.
Nếu bạn đọc nhìn lại một số sự kiện gần đây, chúng
ta có thể thấy cách tiếp cận này rất quen thuộc, và có lẽ đã trở thành nền nếp
với người Việt Nam. Trong giai đoạn 2017 – 2018, một tổ chức tu tập một phiên bản
của Công giáo mang tên Hội Thánh Đức Chúa trời nhanh chóng bị cơ quan chức năng
lẫn người dân Việt Nam lên án quyết
liệt. Bản thân Hội này bị cho là dụ dỗ, lôi kéo người khác, gây ảnh hưởng đến
an ninh trật tự và làm những điều trái với thuần phong mỹ tục; còn những người
thực hành thì bị gọi là “đối tượng” mê muội và mất hết lý trí. Song nếu thật sự
tìm hiểu giáo điều của Hội Thánh Đức Chúa trời, những thứ họ đang quảng bá và
giảng dạy cho giáo dân của họ không mới, từ việc tu tập đạo sau khi chết sẽ được
lên Thiên đàng, hay việc không thờ ông bà tổ tiên… vốn đều là những thực hành
tôn giáo được biết đến từ lâu của Công giáo.
Cách tiếp cận của thuyết đồng thuận pháp lý tạo một
vị thế rất tiện lợi cho bản thân thể chế nhà nước lẫn các tôn giáo đã được
thành lập với căn cơ chặt chẽ. Họ có thể áp đặt bất kỳ tín ngưỡng nào mới hình
thành, chưa được thừa nhận là mê tín dị đoan để bảo vệ vị thế chính trị lẫn tài
chính của mình. Nhưng điều gì xảy ra nếu bản thân nhà nước mong muốn quảng bá
và phổ biến một tôn giáo nào đó là “quốc đạo”? Và điều gì xảy ra nếu các nhóm lợi
ích chính trị và tôn giáo mong muốn duy trì vị thế của mình trong cuộc chiến
tranh giành ảnh hưởng tâm linh của người dân? Vì nhiều lý do, bản thân người viết
không tin rằng thuyết đồng thuận pháp lý sẽ tạo ra một sân chơi bình đẳng và
lành mạnh cho tất cả các tôn giáo và tín ngưỡng.
Hay một cách tiếp cận có lịch sử tư pháp thú vị, mà
người viết xin được phép gọi là thuyết “ngưỡng”, được phát
triển qua hai án lệ Hoa Kỳ nối tiếp nhau là Malnak
v. Yogi (1979) và Africa v. State of
Pennsylvania (1981).
Trong án lệ thứ hai và cũng là nơi mà thuyết “ngưỡng”
hoàn thiện, một thành viên của tổ chức mang tên MOVE, một nhóm cực đoan dân tộc
chủ nghĩa da đen hoạt động ở Philadelphia, là Frank Africa bị bắt giữ do các hoạt
động thù địch của ông này. Trong trại tạm giam, Frank yêu cầu được ăn theo tiêu
chuẩn chỉ bao gồm các rau củ chưa nấu chín và trái cây. Yêu cầu của Frank bị từ
chối, và anh ta khởi kiện cơ quan tạm giam, tạm giữ, dựa vào căn cứ là quyền thực
hành tự do tôn giáo được ghi nhận trong Tu chính án thứ Nhất của Hoa Kỳ.
Tòa án liên bang cấp quận hạt thuộc Eastern District
of Pennsylvania ra phán quyết cho rằng MOVE không phải là một tổ chức tôn giáo,
mà đơn thuần chỉ là một phong trào xã hội “hippy” trở về với tự nhiên, với tầm ảnh
hưởng hạn chế, dù cơ cấu tổ chức mang tính cách mạng. Vụ việc được kháng cáo
lên Tòa Phúc thẩm Liên bang vùng Ba, nơi mà thẩm phán Arlin Adams áp dụng bài
kiểm tra pháp lý ba mũi nhọn của mình, cho rằng một tổ chức tôn giáo cần phải:
(1) xây dựng và sở hữu những ý tưởng tối thượng (ultimate ideas) về đạo
đức cá nhân, đạo đức nhân loại, mục đích và ý nghĩa của sự sống; (2) là yếu tố
có tính toàn diện và hoàn thiện của tín ngưỡng (comprehensiveness), ông khẳng định
một tôn giáo chỉ có thể được công nhận nếu giáo lý của nó trở thành một hệ thống
tự thân với liên kết chặt chẽ, thay vì chỉ là những nguyên tắc và giáo điều đơn
lẻ, không gắn kết; (3) có tính chất cấu trúc, tức có ban bệ, tổ chức và cấp bậc
tôn giáo rõ ràng, bao gồm với những ký hiệu có thể phân biệt được với các tôn
giáo đang tồn tại.
Hiển nhiên, ở Hoa Kỳ không có quy trình đăng ký tôn
giáo và hoạt động tín ngưỡng tôn giáo như tại Việt Nam, song trong trường hợp
có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý, các tiêu chuẩn trên tiếp tục được
tòa án Hoa Kỳ áp dụng cho đến ngày nay.
Theo người viết, đây không phải là một ý tưởng tồi.
Nó vừa bảo vệ được nguyên tắc tự do và tự nguyện trong hoạt động tôn giáo. Song
trong trường hợp có các tranh cãi pháp lý, cơ quan tư pháp vẫn có thể áp dụng một
số tiêu chuẩn nhất định để xác định xem một quan điểm hay một niềm tin có nên được
bảo vệ với danh nghĩa tôn giáo hay không.
***
Song ngay cả phương pháp của hệ thống tư pháp Hoa Kỳ
có lẽ vẫn còn điều chưa giải quyết được. Chúng ta dựa vào thuyết ngưỡng thật ra
chỉ có thể phân biệt giữa cái nên được gọi là tôn giáo, và cái không thể được gọi
là tôn giáo. Còn riêng cái mà không thể được gọi là tôn giáo đó, thì vẫn chưa hẳn
là dị đoan mê tín. Giả dụ như việc một người tin rằng ăn dừa và uống nước dừa
là thanh đạm và cần thiết để hóa thánh là dựa vào niềm tin cá nhân của người
này, liệu có nên bị xem là mê tín dị đoan hay không?
Trong môi trường Việt Nam, người viết tin là chúng
ta cần nhiều thảo luận cả về khoa học lẫn xã hội hơn nữa để tìm ra câu trả lời
thích về sự khác biệt giữa tự do tôn giáo và mê tín dị đoan. Theo người viết,
cái mở đầu của những tranh luận nên nằm ở phạm vi tác động và mục tiêu của mê
tín và thực hành tín ngưỡng tôn giáo. Liệu việc thực hành đó có nhằm thúc đẩy
niềm tin nội tâm và được giới hạn trong việc tu tập cá nhân, hay nó đang được
quảng bá trở thành một gói “giải pháp” cho các vấn đề của thế giới khách quan,
của xã hội như sức khỏe công cộng, hòa bình, kinh tế hay chính trị? Với cách tiếp
cận này, dù việc thực hành tôn giáo đó có được thừa nhận hay không, thì bản chất
mê tín dị đoan của chúng vẫn được thể hiện rất rõ. Đến cuối cùng, chúng ta
không muốn khái niệm mê tín dị đoan chỉ là những diễn ngôn nhằm bảo vệ trật tự
và lợi ích chính trị của nhóm nhỏ nào đó trong xã hội.
No comments:
Post a Comment