Quyền
lực trong xã hội con người, từ cổ đại đến nay, đều đặt nền tảng trên quan niệm
“chính danh - légitime”. Không có chính danh thì nói không ai nghe.
Quyền
lực (power – pouvoir) ở đây được hiểu như là “quyền lực chính trị”. Tức là “thẩm
quyền” áp đặt những nguyên tắc luật lệ mà mọi người trong xã hội (thuộc một
vùng lãnh thổ nhứt định) phải tuân thủ.
Tính
“chính danh” trong chính trị hiện đại có thể được hiểu như là việc “hợp pháp”
hay “hợp hiến”.
(Légitime
- nguyên thủy bắt nguồn từ Latin “legitimus”, có nghĩa là “xác định bằng luật”,
“phù hợp với luật lệ”).
Thí dụ về tính “chính
danh” của “con thú đầu đàn” trong xã hội loài thú và người “thủ lĩnh” xã hội sơ
khai.
Trong
một đàn chim hay một bầy sư tử… luôn có một con đầu đàn. Tất cả những con thú
trong bầy đều phục tùng quyết định của con thú đầu đàn. Tính “chính danh” của
con thú đầu đàn là sức mạnh, là sự khôn ngoan và kinh nghiệm.
Con
sư tử đầu đàn là con thú có sức mạnh vượt trội. Nó có khả năng thiết lập trật tự
trong đàn cũng như khả năng bảo vệ an ninh cho cả bầy trước sự tấn công của các
con thú khác.
Con
chim đầu đàn là con chim khôn ngoan và có kinh nghiệm nhứt trong đàn. Con chim
này có khả năng dẫn dắt cả đàn đến vùng nắng ấm, có nhiều mồi ngon, cả bầy được
sống trường tồn và sung túc.
Xã hội loài người
cũng tương tự như vậy.
Lúc
còn sơ khai, con người đã biết sống tụ tập thành bầy đàn, sử dụng sức mạnh và
trí khôn tập thể để chống chõi với thiên nhiên để “sinh tồn”. Trong nhóm luôn
có một người đứng đầu mạnh nhứt, hay tinh khôn nhứt, dẫn dắt cả nhóm. Văn minh
hơn một chút, con người biết “tổ chức”, bộ lạc được thành lập. Trong bộ lạc có
một người ‘thủ lĩnh” để coi ngó mọi sinh hoạt trong bộ lạc. Tất cả thành viên
trong bộ lạc đều tuân thủ mệnh lệnh của người thủ lĩnh.
Quan
niệm về “quyền lực” được khai sinh. Người thủ lĩnh, con chim đầu đàn, con thú đầu
bầy… là đại diện (thể hiện) cho “quyền lực” trong (xã hội) bầy đàn đó.
Tính “chính danh” của “quyền lực” trong
các xã hội này là “sức mạnh”, “kinh nghiệm” và sự “tinh khôn”.
Con
người ngày càng văn minh hơn, quan niệm về “vương quốc”, sau đó là “quốc gia”
được thành hình. Một “quốc gia” thông thường bao gồm một nhóm dân tộc có cùng
“nguồn gốc” như ngôn ngữ, màu da, huyết thống… có cùng một “lịch sử” và chia sẻ
một “văn hóa” chung. Cốt lõi cho sự “trường tồn” của quốc gia là phương cách
(mô hinh) “tổ chức quốc gia” mà trong đó cách thức “tuyển chọn” người thủ lĩnh
(người lãnh đạo) nắm “quyền lực quốc gia” là yếu tố quan trọng hơn hết.
Dưới
thời “phong kiến” đế quyền, ông vua (hoàng đế) là vị “chủ tể”. Lãnh thổ là của
vua. Tất cả dân chúng trong vương quốc cũng thuộc về ông vua, gọi là “thần
dân”. Các quan trong triều đều do vua “sắc phong”. Mọi “quyền lực” trong quốc
gia đều thuộc về vị “chủ tể” là ông vua. Ông vua thể hiện cho lãnh thổ, vừa dại
diện cho thần dân… Nói theo ngôn ngữ hiện đại, ông Vua vì vậy nắm “chủ quyền” của
quốc gia.
Tính
“chính danh” của ông vua, quan điểm Đông phương ông vua có “mạng trời”, “thế
thiên hành đạo”.
Ông
vua chết đi, con của ông vua, gọi là thái tử, được “nối ngôi”. Ông con lên nối
ông cha trở thành “vua”. Sự liên tục quốc gia vì vậy được thể hiện mà không ai
dị nghị.
Dĩ
nhiên cho tới khi “mệnh trời đã hết”.
Theo
quan điểm Đông phương, “mệnh trời đã hết” được báo hiệu bằng thiên tai như bão
lụt, hán hán, bệnh dịch… liên tục nhiều năm, gây nạn đói kém… Giặc giã nổi lên
chống lại ông vua. Kẻ nào thắng, lật đổ ông vua, vỗ ngực xưng hoàng đế thế
thiên hành đạo. (Dĩ nhiên không quên nhổ cỏ tận gốc bằng cách tru di tam tộc
giòng họ vua trước để tránh việc quang phục). Cứ như vậy mà quốc gia tiếp nối.
Cho
tới thời cận đại. Người dân trong quốc gia không chịu đựng được những thói xa
hoa phung phí của giới hoàng gia cũng như những áp bức đến từ thành phần quan lại.
Sự nghèo khổ cùng cực khiến họ nổi dậy làm “cách mạng” lật đổ chế độ vương quyền.
Hệ quả là “ngai vàng phải trả lại cho nhân dân”.
Từ đó quan niệm “mọi quyền lực trong quốc
gia” thuộc về “nhân dân” được thành hình. Nhân dân là “chủ tể”. “Chủ quyền” của
quốc gia thuộc về nhân dân. Chế độ “cộng hòa” được ra đời.
Người “thủ lĩnh” không còn là người có “thiên mệnh”, hay là người
“có sức mạnh”. Quyền lực trong quốc gia được phân bổ cho những người “lãnh đạo”,
bằng các thể thức “dân chủ” là “bầu cử”.
Quyền lực của (những) người lãnh đạo được giới hạn trong một khoản
thời gian, gọi là “nhiệm kỳ”.
Tính “chính danh” của người lãnh đạo là sự “thắng cử”. Người nào
được nhiều “phiếu bầu”, người đó “thắng cử”.
Trở
lại tình trạng VN hiện thời, các “thái tử đỏ” được “đảng” trao phó “quyền lực”.
Nhìn
lại những sự kiện con ông này, cháu ông kia… quyền lực quốc gia được ban phát một
cách tùy tiện trong hàng ngũ con ông cháu cha. Quyền hành của các ông hoàng đỏ
này bị thách thức. Một chế độ nhìn nhận là “dân chủ”, “cộng hòa”... thì dứt
khoát không thể có việc kế thừa quyền lực.
Nguyên
tắc của mọi chế độ dân chủ (dân chủ tự do hay dân chủ tập trung) là việc phân bổ
quyền hành trong bộ máy nhà nước phải đến từ nhân dân, thể hiện qua các cuộc bầu
cử.
Tính chính danh của “quyền lực” được bảo
đảm bằng sự trung thực của kết quả các cuộc bầu cử.
Quyền
lực của các thái tử đỏ này vì vậy không có chính danh.
Nhân dân nào đã bầu cho các ông thái tử đỏ ?
Có
một “thái tử đỏ” nhân dịp nhận chức, lên tiếng cho rằng quyền lực của cậu ta là
do “đảng” giao phó.
Tức
là tính chính danh về quyền lực của cậu ta được đảng bảo kê.
Vấn
đề là đảng có “quyền” làm việc này hay không ?
Câu
trả lời nên dành cho các đảng viên của đảng CSVN. Họ có “bầu” cho các thái tử
này hay không ?
Nhưng
trên phương diện pháp lý, việc này có nhiều điều vướng mắc. Những vướng mắc này
không những đặt lại tính “chính danh” quyền lực của các thái tử đỏ mà còn đặt lại
tính chính danh (quyền lãnh đạo đất nước và xã hội) của đảng CSVN.
Hệ
thống chính trị VN hiện nay “cơ bản” đặt trên nền tảng “dân chủ”. Theo nguyên tắc
dân chủ (kể cả dân chủ tập trung), không có một chức vụ hay cơ chế (quyền lực)
nào thuộc bộ máy nhà nước mà không thông qua (sự bầu cử) của người dân, hoặc sự
bổ nhiệm của một cơ quan quyền lực chính đáng.
Sự
bổ nhiệm các thái tử đỏ do đó là không hợp hiến.
Trước
đây, những người cộng sản bảo vệ tính chính danh của đảng CSVN với lý do đảng
“đã lãnh đạo dân tộc giành lại độc lập”.
Điều
này không đúng trong thời điểm hiện tại (và dĩ nhiên, tương lai).
Tạm
cho rằng đảng CSVN đã “lãnh đạo dân tộc giành lại độc lập” là một sự thật lịch
sử, không có điều gì cần tranh biện. Thì những người cộng sản hôm nay cũng
không thể vịn vào lý do này để tiếp tục giành quyền lãnh đạo.
Những
thế hệ “khai quốc công thần” chống Pháp, chống Mỹ, tức những người có tư cách,
có chính danh để lãnh đạo, đã lần lượt khuất núi. Những người “có công”, tức những
người có tham gia vào cuộc chiến, đã không còn bao nhiêu người. Ngay cả thế hệ
lãnh đạo hiện thời cũng không có mấy người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến
“chống Mỹ”.
Nếu
dựa vào “công lao”, thì trong đảng hiện nay không ai có công lao (giành lại độc
lập) để đặt nền tảng làm “chính danh”. Không ai có tư cách để lãnh đạo đất nước
hết cả.
Tính
chính danh không có “kế thừa”. Nếu nhìn nhận sự kế thừa thì lý ra con cháu của
những bà mẹ anh hùng, những liệt sĩ, những thương phế binh... phải làm lãnh đạo
mới đúng.
Con
cháu của con chim đầu đàn, của con sư tử đầu bầy, chỉ đơn thuần là một thành tố
trong bầy, chớ không có kế thừa để lên nắm đầu đàn. Muốn trở thành con thú đầu
đàn, con chim đầu bầy, những con thú này phải khẳng định sức mạnh, hay chứng
minh trí khôn và kinh nghiệm. Đó là “chính danh” trong thế giới loài thú.
Việc
bổ nhiệm các thái tử đỏ, những người xem ra tài năng chỉ ở mức (tối đa là)
trung bình, đã khiến chế độ “cộng hòa xã hội chủ nghĩa” trở thành chế độ “quân
chủ xã hội chủ nghĩa”.
Có
người biện hộ cho tính chính danh của đảng CSVN với lý lẽ đảng này được dân bầu
lên :
“Đầu
năm 1946, Đảng Cộng sản đã tổ chức bầu cử Quốc hội và ra Hiến pháp. Hệ thống
chính trị Việt Nam có bầu cử và những người của Đảng ra ứng cử vào các chức vụ.”
(Vũ Minh Giang, nguyên thành viên Hội Đồng lý luận của đảng, nói trên BBC về
tính chính danh của đảng).
Điều
này không đúng sự thật. Thứ nhứt, thời điểm tổ chức bầu cử quốc hội (1946) đảng
CS đã giải tán. Thứ hai, số dân biểu đắc cử vào quốc hội gồm một số lớn nhân sự
không thuộc đảng CSVN.
Nhưng
cũng giả sử rằng thời điểm đó đảng CS không giải tán và số người trong quốc hội
100% là đảng viên đảng CSVN. Thì tính chính danh của đảng cầm quyền chỉ có hiệu
lực trong nhiệm kỳ bầu cử đó mà thôi. Không lẽ nhiệm kỳ đó kéo dài (đến nay đã
gần) 70 năm ?
Lý
lẽ khác cũng thường thấy người cộng sản nhắc để biện hộ cho tính “chính danh” của
họ là đại diện “giai cấp vô sản”.
Bất
kỳ đảng cộng sản nào cũng cho rằng họ có “chính danh” để lãnh đạo đất nước, vì
họ đại diện cho số đông (nhân dân vô sản) trong xã hội. Nhà nước họ lập nên là
“nhà nước vô sản”, sử dụng sự “chuyên chính vô sản”, tức sự “độc tài” cho tầng
lớp vô sản, nhằm triệt tiêu giai cấp bóc lột đem lại sự “công bằng” trong xã hội.
Quyền
lực này chỉ chính đáng khi đảng này còn phục vụ cho giai cấp mà họ đại diện, tức
giai cấp vô sản, công nhân, nông dân… nói chung là tầng lớp lao động nghèo.
Khi
đảng này phục vụ cho một giai cấp khác, như tầng lớp tư bản nước ngoài, tầng lớp
tư bản đỏ… thì nó đã phản bội lại giai cấp mà họ đại diện. Tính chính đáng để
lãnh đạo của nó bị mất đi.
Ngày hôm nay, dựa vào “giai cấp vô sản”
để biện hộ cho tính chính danh trở thành một sự ngụy biện trắng trợn.
Đảng
CSVN bay giờ không hề đại diện cho quyền lợi của “giai cấp vô sản”, tức giai cấp
công nhân, nông dân, những người lao động nghèo… trong xã hội. Bản thân của họ
đã trở thành những trọc phú bóc lột. Bản thân họ là những quan tham. Nhân sự của
hệ thống quyền lực quốc gia đã trở thành những con sâu mọt đục phá tài sản quốc
gia, nhũng nhiễu dân lành.
Đảng
CSVN bây giờ là đại diện cho tầng lớp tư bản hoang dã, tầng lớp đầu cơ trục lợi
cũng như đại diện cho quyền lợi của tầng lớp tư bản nước ngoài. Đảng viên cộng
sản trở thành những tên cai thầu coi ngó người dân VN như là những công nhân
lao động cho tập đoàn nước ngoài.
Chính
danh ở đây là chính danh làm cai thầu, chính danh đưa dân tộc vào vòng làm thuê
vác mướn.
Tính
"chính danh" và "quyền lực" của ĐCSVN từ 1945 cho đến nay chỉ
nằm trên "họng súng". Một điều đơn giản tưởng dễ hiểu bao năm nay,
coi vậy mà khó ghê !
Hôm
nay mới thật sự cảm nhận " sức mạnh vô song " của cao nhân , bài viết
của anh là một quả bom nổ ngay trung tâm đầu não của cộng sản , làm bọn độc tài
thêm hoảng loạn . T.lú phải uống thuốc trợ tim để không bị đột quỵ .
No comments:
Post a Comment