02.07.2015
Cách đây mấy ngày, tôi có dịp chuyện trò với một đồng
nghiệp chuyên dạy về phương pháp giảng dạy tiếng Anh cho người nước ngoài
(TESOL, Teaching English to Speakers of Other Languages). Chị thường đi dạy
trong các lớp Thạc sĩ tại Việt Nam cũng như nhiều nước khác ở châu Á. Tôi hỏi
chị về các sinh viên Việt Nam. Chị rất khen họ. Rằng phần lớn đều học hành một
cách chăm chỉ. Rằng phần lớn đều gặp khó khăn trong việc nghe và nói nhưng khả
năng đọc và viết thì rất khá. Rằng phần lớn đều thân thiện, lịch sự và lễ phép
với các thầy cô giáo. Nói chung, ấn tượng của chị về họ đều rất tốt. Chị khen họ
hơn sinh viên của bất cứ nước nào khác.
Tuy nhiên, sau khi khen ngợi một cách nồng nhiệt, chị
hơi khựng lại một chút, rồi băn khoăn: Chị không hiểu tại sao tất cả (chị nhấn
mạnh: TẤT CẢ) các sinh viên Việt Nam, trong đó, có khá nhiều người đã và đang dạy
tiếng Anh trong các trường trung học, lại thường có cái nhìn hết sức tiêu cực về
tình hình dạy tiếng Anh cũng như về tình hình giáo dục Việt Nam nói chung. Tất
cả các bức tranh họ vẽ ra đều đen tối. Lớp học thì đông. Động cơ học tập của học
sinh khá yếu. Tài liệu giảng dạy cũ kỹ. Phương pháp giảng dạy lạc hậu. Do đó, kết
quả thường rất ít: Phần lớn học sinh, sau sáu bảy năm học ở trung học, đều
không thể nghe và nói tiếng Anh được.
Với người bạn đồng nghiệp người Úc của tôi, những nhận
xét tiêu cực về nền giáo dục của các sinh viên Việt Nam là một hiện tượng rất lạ.
Ngoài Việt Nam, chị cũng thường xuyên dạy học tại các nước khác, từ Singapore đến
Malaysia, Thái Lan và Trung Quốc. Ở các nước ấy, hầu hết các sinh viên đều có
cái nhìn khá lạc quan, thậm chí, đôi khi, có vẻ tự hào về nền giáo dục nước họ.
Không ở đâu sinh viên lại bi quan như ở Việt Nam.
Người bạn đồng nghiệp của tôi lại hỏi tiếp: Sau khi
tốt nghiệp các lớp về phương pháp giảng dạy của Úc, họ có hy vọng sẽ thay đổi
tình hình giáo dục, ít nhất là trong bộ môn tiếng Anh, tại Việt Nam hay không?
Tất cả đều trả lời: Không. Họ cho những khó khăn trong việc dạy học tại Việt
Nam không phải chỉ ở trình độ của các thầy cô giáo mà còn ở môi trường giáo dục
chung của Việt Nam. Chị nhận xét: Rõ ràng họ không những bi quan mà còn tuyệt vọng.
Chị hỏi tôi: Tại sao như vậy? Tại sao ở một đất nước có vẻ như đang phát triển
rất nhanh mà các sinh viên, tức thành phần trí thức, lại có cái nhìn bi quan và
tuyệt vọng đến như vậy?
Tôi đáp: Đó là một thực tế. Quả thật nền giáo dục tại
Việt Nam đang bị bế tắc. Bế tắc từ chính sách đến các khâu thực hiện và thực
hành. Không những chỉ trong bộ môn tiếng Anh mà hầu như ở tất cả các môn học
khác cũng đều vậy: thất bại. Học sinh bị nhồi nhét quá nhiều những thứ kiến thức
cũ kỹ và lạc hậu. Môi trường giáo dục lại không tốt cho việc phát huy óc sáng tạo
và khả năng tự học cũng như tự nghiên cứu của học sinh và sinh viên.
Người bạn đồng nghiệp của tôi, sau đó, nêu lên hai
nhận xét mà tôi rất tâm đắc:
Thứ nhất, sự thất bại của một số học sinh trong lớp
có thể xuất phát từ nhiều lý do, nhưng lý do quan trọng nhất là từ kiến thức và
kỹ năng giảng dạy của các thầy cô giáo; nhưng sự thất bại của hầu hết các học
sinh ở tất cả các trường thì lại có nguyên nhân từ nền giáo dục; trong khi đó,
sự thất bại của cả nền giáo dục thì lại có nguyên nhân sâu xa từ các chính sách
của nhà nước, trong đó, có cả vấn đề thể chế chính trị.
Thứ hai, người bạn đồng nghiệp của tôi lý luận tiếp:
Nếu nguyên nhân sâu xa nằm ở thể chế chính trị thì để thay đổi hiện trạng giáo
dục, người ta phải nhắm đến việc thay đổi hoặc cải thiện thể chế chính trị.
Nhưng ở đây, chị lại bắt gặp hai hiện tượng nghịch lý: Một mặt, các sinh viên của
chị đều tránh né nói chuyện chính trị, hoặc nếu nói, cũng không thể hiện một tầm
nhìn nào thực sự sâu sắc và có tính chiến lược. Phần lớn chỉ dừng lại ở mức thở
than. Mặt khác, hầu như tất cả đều chỉ nghĩ đến bản thân mình. Khi chị hỏi:
Bi quan như vậy, tại sao các sinh viên lại chịu bỏ một số tiền khá lớn để theo
học các trường quốc tế, tất cả đều trả lời có ba lý do chính: Một là để nâng
cao tiếng Anh; hai là để học tập được các phương pháp giảng dạy mới từ Tây
phương; và ba là để có một mảnh bằng quốc tế nhằm dễ xin dạy ở các trường lớn
và lương cao. Không có động cơ nào gắn liền với hy vọng cải thiện giáo dục cả.
Chị so sánh với các sinh viên Úc: Thứ nhất, hầu hết
các sinh viên Úc đều không có tâm trạng bi quan như vậy; thứ hai, trong các buổi
thảo luận, sinh viên Úc không những chỉ quan tâm đến các phương pháp giảng dạy
hay hiệu quả của việc giảng dạy mà còn để ý đến các chính sách giáo dục của
chính phủ cũng như của các đảng phái đối lập và họ cũng thường có một thái độ
rõ ràng về các chính sách ấy.
Thật ra, những nhận xét của người bạn đồng nghiệp, với
tôi, không có gì mới lạ. Tôi biết tất cả những điều đó. Hầu hết người Việt Nam
cũng đều biết rõ những điều đó: Sự bi quan và tuyệt vọng của mọi người đối với
tình hình giáo dục cũng như tình hình đất nước nói chung. Tuy nhiên, nếu sự tuyệt
vọng đối với viễn ảnh giáo dục hay đất nước là một hiện tượng đáng buồn thì
thái độ không quan tâm đến chính trị và chỉ nghĩ đến bản thân mình của phần lớn
giới trí thức lại là một hiện tượng rất đáng lo lắng: Đó là sự tuyệt vọng đối với
tình hình chung của đất nước.
Người ngoại quốc, khi nhận định về Việt Nam, vẫn có
sự dửng dưng của một kẻ ngoại cuộc. Với chúng ta, người Việt Nam, đối diện với
những sự tuyệt vọng ấy, bao giờ cũng thấy nhói lên trong lòng những cảm giác
xót xa.
* Blog của Tiến sĩ
Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng
ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment