Lo
ngại cho tương lai Việt Nam
Chúng
ta cần biết nhiều về đối phương Bành trướng chọn
lấy ngoại giao "quan hệ song phương" và "ích
lợi quyền lực chung", họ quyết định dùng phương
thức đàm phán cho đến năm 2020, của một giao đoạn hòa
nhập trong thế kỷ 21. Hai đảng Cộng sản tiến hành
nhịp độ "mịn", cùng ăn chung trên một mẫu
bánh Việt Nam. Khởi đầu ăn từ Vịnh Bắc Bộ vào năm
1991 sau khi Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt đến Bắc Kinh. Sau
9 năm đàm phán Việt Cộng ký kết mở rộng diện tích
lãnh hải vùng đảo Bạch Long Vĩ cho Trung Cộng, từ đây
lãnh hải của Việt Nam bị thu nhỏ lại, quyền hoạt
động ngư nghiệp của người dân Việt Nam giới hạn ven
bờ Vịnh Bắc Bộ. Đoạn nửa còn lại xây dựng kế
hoạch áp dụng mô hình cho đàm phán biên giới đất
liền, vùng đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông Việt
Nam-Trung Quốc. Giai đoạn sau khi ký những hiệp ước trên
thành công, Trung Cộng tung ra những nhóm đàm phán dưới
sự chi phối của gián điệp xây dựng quốc gia, chiến
tranh, chính trị, phản gián, kinh tế, và quốc phòng để
nhập Việt Nam vào đại lục Trung Quốc.
Nội
dung "Kỷ yếu hội nghị bí mật Thành Đô 1990"
Trung Cộng đã tiến hành được đến 4%. Đất nước đã
đến hồi nguy cơ, hy vọng, những người yên nước,
những tổ chức chính trị có cương lĩnh sáng suốt quá
trình hoạt động tình tự dân tộc "Tự do Dân chủ
Đa nguyên" và những thành viên đảng Cộng sản thức
tỉnh, từ bây giờ cùng hiệp lực tiến hành cuộc cách
mạng thế kỷ 21.
Nếu
đảng Cộng sản Việt Nam không vì lệ thuộc bành trướng
hãy cùng với nhân dân xây dựng lại chế độ mới, thực
sự phục vụ vì dân tộc Việt Nam để đối phó âm mưu
của Trung Cộng. Nếu mãi mê làm tay sai, "tiếp nối
khôi phục lại chính sách Trung Quốc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh", chấp nhận "quan hệ song phương hữu
nghị truyền thống giữa hai Đảng, hai nước" như
BCT/TW Nguyễn Văn Linh đã thề nguyện trước đảng Trung
Cộng tại hội nghị bí mật Thành Đô, đã từng tuyên
bố: "Chúng tôi quyết tâm sửa chữa những sai lầm
của các chính sách trước đây, chưa bao giờ vô ơn Trung
Cộng", thay cho lời công bố trước nhân dân hai nước
từ đây Việt Nam chấp nhận nô lệ theo kế sách chiến
thuật của Trung Cộng đề ra Việt Nam thi hành.
Ngày
nay, nhân dân Việt Nam cần phải thấy Trung Cộng tiến
hành cướp Việt Nam bằng chiến sách "mịn", âm
thầm mất nước từng đoạn, chứ không phải mất nước
theo phương tiện chiến tranh, mà người ta cứ ngồi chờ
đến năm 2020.
Hình
thành một cuộc đấu tranh cần phải tập hợp con người,
tài liệu chính trị, thúc đẩy động lực, sáng tạo
ngọn cờ, nguyên nhân chính đáng, vận động quần chúng,
nhân lực truyền thông, thu hút dư luận và khởi điểm
xuống đường v.v...từ lúc hoạt động công khai với
tinh thần bất bạo động, thông báo nhân dân biết hoạt
động của mình và kêu gọi người dân hướng về chủ
quyền đất nước. Nếu mọi điều đó hợp với lòng
dân sẽ có những hổ trợ vô biên. Những điều vừa mới
nêu ra ắt quyết mọi người yêu nước đã chuẩn bị.
Nhân dịp này chúng tôi có thêm một tài liệu nữa chứng
minh quá rõ ràng Việt Cộng đã lấy quyết định bán
nước.
Trung
Cộng đã hành động, Việt Nam mất nước trong yên tĩnh
Chúng
tôi thực hiện phỏng vấn đàm phán chủ quyền lãnh hải,
lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc. Thứ trưởng Ngoại giao
Vương Nghị (Wang Yi-王毅)
và người đứng đầu Ủy ban đàm phán ranh giới của
Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Dũng (Wuyong) đồng
chấp thuận trả lời.
Việt
Nam-Trung Quốc nhấn mạnh đàm phán ranh giới phân định
lãnh hải, lãnh thổ. Tuy cả hai không nói ra nhượng biển
Đông nhưng trên thực tế ở trong điểm then chốt Việt
Cộng đã đồng ý bán một phần lãnh hải cho bành
trướng, mới có định nghĩa "mở rộng diện tích"
trong "Hiệp định phân định mở rộng Vịnh Bắc Bộ"
và "Hiệp định hợp tác nghề cá" đồng nghĩa
Việt Cộng "hợp tác toàn diện" theo suy nghĩ của
hiệp định bành trướng là hòa nhập, Việt Cộng trao
ngư dân Việt Nam cho tộc Hán quản lý như "Hiệp định
hợp tác nghề cá" trong vùng Vịnh Bắc Bộ đã mô
tả, sau khi ký hiệp định hợp tác ngư dân trong vùng
Vịnh Bắc Bộ trở thành công nhân thủy sản Bành trướng,
có trên 2721 ngư dân phản đối phương thức phối hợp
Hán-Việt, ngư dân tự ý từ bỏ ghe-tàu lên bờ, vào đất
liền sinh kế bằng những ngành nghề khác, số còn lại
chỉ vì cuộc sống phải tuân luật biển phi lý của
người Hán.
Hà
Nội ngày 30 tháng 6 năm 2004, trong buổi ký kết công bố
hiệu lực 2 hiệp ước trên. [1] Nhân dịp đánh dấu
thành quả, Tân Hoa Xã vào cho biết: Người đứng đầu
phái đoàn Ngoại giao Thứ trưởng Vương Nghị, cùng với
Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng sẽ gặp riêng
hội ý nhiều điểm quan trọng, thúc đẩy ký kết những
hiệp ước khác càng sớm càng tốt.
Trong
lúc này người dân Việt Nam cần phải biết những "dây
mơ rễ má" của mối quan hệ thân thiện với bành
trướng, nay Việt Cộng đã hoàn toàn qui phục ngoại giao
theo chính sách của Hồ Chí Minh, chấp nhận "tình
đồng chí và tình anh em", như thể một tín đồ quá
trung thành với một bề trên có nhiền hành vi khả hoại
đức tin, tự nó trở thành nô lệ đánh mất chất tính
trung thực của con người, Việt Cộng cũng thế vì Trung
Quốc đánh mất tính dân tộc Việt Nam và xem đồng bào
như một thứ cỏ rác để phục vụ cho bành trướng.
Thứ
trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (Wang Yi-王毅) và
Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, Vũ Dũng (Wuyong).
Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Thứ
trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (Wang Yi) trả
lời cuộc phỏng vấn "Hiệp định phân định Vịnh
Bắc Bộ" và "Hiệp định về hợp tác nghề cá"
Tại
sao phải phân chia Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam?
Vương
Nghị cho biết:
-
Vịnh Bắc Bộ có một bán đảo Bạch Long Vĩ giữa Trung
Quốc và Việt Nam bao quanh bởi một diện tích khoảng
128.000 km² và có tự bao giờ trong lịch sử đã được
chia. Giữa những năm 70 của thế kỷ trước, hai nước
đã bắt đầu đàm phán về phân định Vịnh Bắc Bộ mở
rộng. 80 năm sau, luật hàng hải mới dần dần hình
thành, Trung Quốc và Việt Nam, tương ứng, thông qua "Công
ước Liên hợp quốc về Luật biển" vào năm 1994 và
1996. Theo cơ chế pháp lý mới này, ngoài 12 hải lý có
ven biển ở với Việt Nam, cũng có một vùng đặc quyền
kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa. Nhưng ở phía Bắc
Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, biển chỉ chia sẻ khoảng
180 dặm biển ở điểm rộng nhất của nó. Nói cách
khác, toàn bộ phía Bắc Vịnh Bắc Bộ nằm trong lợi ích
của khu vực chồng lấn lên nhau một yêu sách, và điều
này đòi hỏi hai nước thông qua đàm phán để vẽ ranh
giới rõ ràng.
Với
hệ thống phân vùng đặc quyền kinh tế của mỗi quốc
gia để thúc đẩy tác động dần dần của các quyền
đánh cá truyền thống, tại Vịnh Bắc Bộ, hai bên tranh
chấp đánh cá ngày càng tăng, không chỉ gây thiệt hại
đến lợi ích của ngư dân, nhưng cũng ảnh hưởng đến
sự phát triển "mịn" của quan hệ song phương,
khách quan và tình hình mới đòi hỏi cả hai bên để
giải quyết vấn đề càng sớm càng tốt xác định ranh
giới, và thành lập mới cơ chế hợp tác nghề cá.
Trung
Quốc như thế nào để đánh giá các kết quả phân giới
cắm mốc?
Vương
Nghị đáp rằng:
-
Ranh giới của các nước tại Vịnh Bắc Bộ có liên quan
đến chủ quyền lãnh thổ, chính phủ Trung Quốc và các
nhà lãnh đạo Trung Quốc đã luôn luôn chú trọng đến
các thành phần của đoàn đàm phán của cơ quan có thẩm
quyền để tham gia, thông qua cẩn thận, nghiên cứu khoa
học, phát triển một giải pháp thực tế. Việt Nam cũng
là sự thật. Tiến hành đàm phán, đặc biệt là vào các
cuộc đàm phán thực chất từ đó, dưới sự chăm sóc
cá nhân và khuyến mãi của hai nhà lãnh đạo, hai bên phù
hợp với các nguyên tắc đã được thừa nhận của luật
pháp quốc tế, trong đó có "Công ước Liên hợp quốc
về Luật biển", trong việc xem xét đầy đủ của
tất cả các trường hợp trên cơ sở "mở rộng Vịnh
Bắc Bộ", theo nguyên tắc công bằng, "tinh thần
hiểu biết lẫn nhau, tinh thần tham vấn thân thiện",
đàm phán lâu dài, phức tạp và sự kiên nhẫn, và cuối
cùng đã hoàn thành công tác phân giới cắm mốc.
Hà
Nội ngày 30 tháng 6 năm 2004 ký kết "Hiệp định
phân định mở rộng diện tích Vịnh Bắc Bộ".
Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
"Hiệp
định phân định mở rộng diện tích Vịnh Bắc Bộ",
thiết lập ranh giới các vùng biển ở phía Bắc Vịnh,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, theo phía
Trung Quốc hai nước trong một địa lý chính trị của
Bắc Vịnh, mối quan hệ tổng thể điểm cơ bản tương
đối cân bằng, hai bên đã thực hiện một vùng biển
khoảng phân loại một kết quả khá công bằng, mà còn
để đạt được một phân bổ hợp lý các nguồn tài
nguyên trong vùng Vịnh Bắc Bộ. Đây là thứ tự của hai
bên gặp gỡ theo luật mới của biển, một giải pháp
công bằng để thực hành thành công của phân định
biển, và cũng cho thấy hai bên là hoàn toàn có khả năng,
thông minh, thông qua hiệp thương hữu nghị để giải
quyết lâu dài mối quan hệ song phương chưa được giải
quyết. Cách đây không lâu, Quốc hội Nhân dân của Trung
Quốc và Quốc hội Việt Nam được coi phân định lại
biên giới là tốt và đã được phê duyệt thỏa thuận
này, cho thấy các kết quả phân giới cắm mốc được
hiểu rộng rãi và được hỗ trợ bởi tất cả các
thành phần của nhân dân hai nước.
Tác
động của sự phân định Vịnh Bắc Bộ sử dụng tài
nguyên thủy sản?
Vương
Nghị cho biết:
-
Vịnh Bắc Bộ là một ngư trường truyền thống của
tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, Quảng Đông và Hải Nam (khu
vực) ngư dân. Phân định là có liên quan trực tiếp đến
lợi ích quan trọng của việc phân bổ và sử dụng nguồn
tài nguyên thủy sản của đa số ngư dân. Để kết thúc
này, sự khởi đầu của cuộc đàm phán, chính phủ Trung
Quốc rất coi trọng việc bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của ngư dân. Trung Quốc muốn làm mọi cách để
cho phân biệt rõ ràng về vấn đề nghề cá và phải
được giải quyết đúng đắn, xác định và thỏa thuận
thủy sản phải được ký kết thỏa thuận hợp tác,
trong khi chờ đợi thời điểm có hiệu lực. Phân định
Vịnh Bắc Bộ cần phải đặt một đại dương mới,
thiết lập sự hợp tác lâu dài trong lĩnh vực thủy sản.
Chính thẩm quyền Việt Nam đã đưa ra một sự hiểu biết
đầy đủ, cuối cùng hai bên đã ký một thỏa thuận
phân chia ranh giới trong cùng một ngày, cùng với việc ký
kết "Hiệp định hợp tác nghề cá" Vịnh Bắc
Bộ. Sau 3 năm đàm phán hai bên có được hợp tác nghề
cá, để phát triển các biện pháp cụ thể và thực hiện
được thỏa thuận thủy sản.
Cả
hai bên đều tôn trọng chủ quyền và quyền tài phán
trên cơ sở phân định hai chiếc thuyền lớn có thể
nhập vào khu vực đánh cá chung qua biên giới, bao gồm
gần như phần lớn các khu vực đánh bắt cá có năng
suất cao ở phía Bắc Vịnh Bắc Bộ (VN), thời hạn 15
năm, còn người kia (VN) ở phía Bắc, nhưng chỉ thỏa
thuận đánh cá chung từ 4-5 năm, sau đó thỏa thuận
chuyển tiếp, cho phép hai tàu hợp tác đánh bắt cá chung
xuyên biên giới. Trong khi đó, thỏa thuận cũng rõ ràng
quy định rằng các bên cùng có tinh thần lợi chung, trong
vùng nghề đánh bắt cá chung, hợp tác lâu dài. Hai bên
nhất trí hợp tác với nhau để phát triển bảo tồn,
quản lý và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên
sinh học, các biện pháp để bảo vệ ngư dân hoạt động
nghề cá bình thường. Hai bên cũng nhất trí thành lập
một ủy ban chung để thực hiện hợp tác nghề cá tại
Vịnh Bắc Bộ có liên quan cụ thể. Chúng tôi có thể
nói rằng những thỏa thuận được bảo vệ đầy đủ
quyền lợi hợp pháp của ngư dân dọc theo Vịnh, càng
đánh dấu sự khởi đầu của mô hình hợp tác nghề cá
mới, cũng làm cho quá trình chuyển đổi để các luật
mới về chế độ lãnh hải Biển Đông. Mặc dù nghề cá
Vịnh Bắc Bộ giàu tài nguyên, nhưng nó giới hạn, trong
những năm qua một số lượng lớn cá có ảnh hưởng đến
nguồn tài nguyên tái tạo. Ký kết hợp đồng, nhưng cũng
có lợi cho việc sử dụng bền vững nguồn lợi thủy
sản trong vịnh.
Việc
ký kết Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp
định hợp tác nghề cá ý nghĩa là gì?
Vương
Nghị nói rằng:
-
Việc ký kết Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và
Hiệp định hợp tác nghề cá là một thành tựu quan
trọng trong năm 1999, sau khi ký kết hiệp ước biên giới
trên đất liền giữa Trung Quốc và Việt Nam trong việc
giải quyết các vấn đề lịch sử được thực hiện.
Ký kết các thỏa thuận phù hợp với lợi ích chung của
hai nước và nhân dân hai nước và có lợi cho việc đạt
được hòa bình và ổn định lâu dài trong khu vực Vịnh
Bắc Bộ, thúc đẩy phát triển lâu dài ổn định quan hệ
Trung-Việt có ý nghĩa lớn.
Là
một bộ phận mới của sự đóng góp Vịnh Bắc Bộ để
hòa bình và ổn định khu vực. Trung Quốc với Việt Nam
cùng đối diện hoạt động chung trong lãnh hải, đang
phải đối mặt với các vấn đề phân định biển. Vịnh
Bắc Bộ đường ranh giới giữa Trung Quốc và các nước
láng giềng đầu tiên cần đàm phán phân định biên giới
trên biển, nó cho thấy rằng phía Trung Quốc giải quyết
vấn đề phân định ranh giới hàng hải thông qua hòa
bình các cuộc đàm phán chân thành, mà còn đối với
Trung Quốc và các nước láng giềng khác trong tương lai
thông qua các cuộc đàm phán biên giới biển chia được
những tích lũy kinh nghiệm. Điều này không chỉ giúp
tăng cường tin cậy lẫn nhau giữa Trung Quốc và các nước
láng giềng, mà còn có lợi cho hòa bình và ổn định
trong khu vực.
Sau
khi có hiệu lực của hai thỏa thuận, hai bên cũng như
các công việc tiếp theo phải làm gì?
Vương
Nghị cho biết:
-
Trước hết, hai bên cần đồng ý và thực hiện các biện
pháp quản lý hoạt động khai thác theo hệ thống mới,
theo như luật pháp để bảo vệ các hoạt động bình
thường của ngư dân. Thứ hai, tăng cường bộ phận hành
chính và công tác vận động ngư dân địa phương, do đó
chúng tôi có thể hiểu được tinh thần và nội dung
chính của thỏa thuận, có ý thức duy trì và thực hiện
theo thỏa thuận. Thực hiện các thoả thuận yêu cầu một
giai đoạn điều chỉnh, đặc biệt là trong những ngày
đầu có hiệu lực, có thể gặp một số tình huống mới
và những vấn đề mới. Điều này đòi hỏi cả hai bên
xuất phát từ tình hình chung của quan hệ song phương,
trong một tinh thần hiểu biết và hợp tác và xử lý
đúng cách. Trong ngắn hạn, hai bên sẽ có hiệu lực hai
thỏa thuận như một cơ hội để đưa "tòa nhà vào
một đường ranh giới mới của hòa bình", hữu nghị
và quan hệ hợp tác có lợi cho nhân dân hai nước.
Phỏng
vấn nhóm đàm phán cấp Chính phủ phía Việt Nam
Thứ
trưởng Ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng (Wuyong) trả lời:
-
Kết thúc cuộc đàm phán biên giới lãnh hải Vịnh Bắc
Bộ của Việt Nam. trên danh nghĩa phê chuẩn "Thỏa
thuận phân định mở rộng diện tích Vịnh Bắc Bộ",
"Hiệp định đặc quyền kinh tế thềm lục địa và
nghề cá". Hai cơ quan ngoại giao có chức năng đối
ngoại giữa Việt Cộng-Trung Cộng, trao đổi công bố
chính thức hiệu lực. "Hiệp định hợp tác thủy
sản tại Vịnh Bắc Bộ".
Trước
đó Phó Thủ tướng Việt Nam Vũ Khoan đi đêm gặp riêng
Vương Nghị (Wang Yi), Vũ Khoan bí mật tiết lộ: "Việt
Nam nhất định thỏa thuận trao đổi văn kiện phê chuẩn
và có hiệu lực trong hai hiệp định trên, xem đó là sự
kiện quan trọng trong lịch sử quan hệ song phương, không
chỉ để tạo ra một môi trường hòa bình và ổn định
trong Vịnh Bắc Bộ, mà còn thúc đẩy sự phát triển của
mối quan hệ láng giềng tốt và hợp tác toàn diện giữa
hai nước để tạo ra các điều kiện của Việt Nam".
Vương
Nghị nói rằng:
-
Việc ký kết và có hiệu lực của hai thỏa thuận, do
hai Chính phủ biết lãnh đạo, chăm sóc và hướng dẫn,
kết quả của nỗ lực chung có lợi cho hòa bình và ổn
định ở biên giới với các khu vực Vịnh Bắc Bộ giúp
hai bên thúc đẩy phát triển và quan hệ song phương.
Vương Nghị nói tiếp:
-
Cả hai bên hợp tác trong sự tin tưởng tốt, cùng nhau
thực hiện hai thỏa thuận, và xử lý đúng đắn tình
hình mới xuất hiện và sớm đưa vào hiệu lực của
Hiệp định, những vấn đề mới".
Trong
khi đàm phán Việt Nam có ý định thể hiện tinh thần
phục tùng đã ký vào một lúc các văn bản hiệp ước
"Hiệp định phân định mở rộng diện tích Vịnh
Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác thủy sản
Vịnh Bắc Bộ giữa Cộng hòa nhân dân Trung Hoa-Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Hội đồng Nhà nước
Trung Quốc và chính phủ Việt Nam đã phê chuẩn các hiệp
định, đồng nhất trí công bố hiệu lực hai hiệp định
trên, vào ngày 30 tháng 6 năm 2004.
Phân
giới cắm mốc biên giới Trung-Việt trong Vịnh Bắc Bộ
Với
ranh giới pháp lý của Vịnh Bắc và phân định các vấn
đề thủy sản.
Đại
diện hai nhà nước chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Đồng ký kết Hiệp định về ngày 25 tháng
12 năm 2000 tại Bắc Kinh một bản gồm cả 2 tiếng
Hoa và tiếng Việt, cả hai văn bản giá trị như
nhau. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Hiệp
định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ giữa 2 Chính phủ
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. Duy trì và phát triển quan hệ
láng giềng truyền thống tốt giữa hai chế độ, sau đây
2 bên đã ký kết sử dụng và bảo tồn bền vững các
vùng biển phía Bắc Vịnh Bắc Bộ, "Hiệp định tài
nguyên sinh vật biển" tăng cường "hợp tác song
phương" trong thủy Vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc cầm
nhầm luật quốc tế, không theo qui định có liên quan
"Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển ngày 10
tháng 12 năm 1982 ". Trung Cộng tự cho mình có quyền
mở rộng diện tích khai thác Vùng đặc quyền kinh tế,
phía Việt Cộng chấp nhận thỏa thuận vô thời hạn sử
dụng (6 nguyên tắt) 1 - Phân định Hiệp định Vịnh Bắc
Bộ, 2 - Thông qua tham vấn thân thiện, 3 - Tôn trọng chủ
quyền trong vùng Vịnh Bắc Bộ, 4 - Quyền tài phán quốc
gia, 5 - Trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi, 6 - Đã
thoả thuận theo hiệp ước:
Phần
1 tổng thể hiệp ước
Điều
khoản 1
Một
phần của các vùng biển của Hiệp định này áp dụng
đối với phần phía Bắc của các nước vùng Vịnh và
vùng đặc quyền kinh tế của họ tiếp giáp với lãnh
hải (sau đây gọi là "vùng nước Hiệp định").
Điều
khoản 2
Các
Bên ký kết sẽ tôn trọng chủ quyền của nhau, quyền
chủ quyền và quyền tài phán trên cơ sở hợp tác trong
thỏa thuận thủy sản vùng biển. Điều này không ảnh
hưởng đến các quyền khác của hợp tác nghề cá giữa
hai quốc gia và vùng lãnh thổ tương ứng của họ trong
vùng đặc quyền kinh tế thích ứng từng phần.
Phần
2 của đánh cá chung
Điều
khoản 3
Điều
1 Các bên đồng ý về phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ niêm
phong lãnh hải, phía Nam 20 độ vĩ bắc, từ ranh giới
phía Bắc thỏa thuận phân định ranh giới xác định
Vịnh (sau đây gọi là "Dòng") mỗi 30,5 hải lý
vùng đặc quyền kinh tế của hai nước thiết lập một
kế hoạch phổ biến khu vực đánh bắt cá.
Điều
2 Phạm vi cụ thể của vùng trong Vịnh Bắc Bộ, lần
lượt đánh bắt cá theo điểm nối với nhau bằng một
đường thẳng, tỏa ra những điểm bao quanh bởi những
vùng biển đã ký kết sau đây:
1
- vĩ độ 17 độ 23 phút 38 giây kinh độ đông 107 độ 34
phút 43 giây của các điểm
2
- vĩ độ 18 độ 09 phút 20 giây kinh độ đông 108 độ 20
phút 18 giây của các điểm
3
- vĩ độ 18 độ 44 phút 25 giây kinh độ đông 107 độ 41
phút 51 giây của các điểm
4
- vĩ độ 19 độ 08 phút 09 giây kinh độ đông 107 độ 41
phút 51 giây của các điểm
5
- vĩ độ 19 độ 43 phút 00 giây kinh độ đông 108 độ 20
phút 30 giây của các điểm
6
- vĩ độ 20 độ 00 phút 00 giây kinh độ đông 108 độ 42
phút 32 giây của các điểm
7
- vĩ độ 20 độ 00 phút 00 giây kinh độ đông 107 độ 57
phút 42 giây của các điểm
8
- vĩ độ 19 độ 52 phút 34 giây kinh độ đông 107 độ 57
phút 42 giây của các điểm
9
- vĩ độ 19 độ 52 phút 34 giây kinh độ đông 107 độ 29
phút 00 giây của các điểm
10
- vĩ độ Bắc và 20 độ 00 phút 00 giây kinh độ đông
107 độ 29 phút 00 giây của các điểm
11
- vĩ độ Bắc và 20 độ 00 phút 00 giây kinh độ đông
107 độ 07 phút 41 giây của các điểm
12
- vĩ độ Bắc và 19 độ 33 phút 07 giây kinh độ đông
106 độ 37 phút 17 giây của các điểm
13
- vĩ độ 18 độ 40 phút 00 giây kinh độ đông 106 độ 37
phút 17 giây của các điểm
14
- vĩ độ 18 độ 18 phút 58 giây kinh độ đông 106 độ 53
phút 08 giây của các điểm
15
- vĩ độ Bắc và 18 độ 00 phút 00 giây kinh độ đông
107 độ 01 phút 55 giây của các điểm
16
- vĩ độ Bắc và 17 độ 23 phút 38 giây kinh độ đông
107 độ 34 phút 43 giây của các điểm
Trung
Quốc tung hoành trong vùng Vịnh Bắc Bộ, lần lượt
đánh bắt cá theo điểm nối với nhau bằng một đường
thẳng, tỏa ra những điểm bao quanh bởi những vùng
biển đã ký xác định. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh
Tâm.
Điều
khoản 4
Bên
ký kết phù hợp với tinh thần cùng có lợi, vùng đánh
cá chung trong hợp tác nghề cá lâu dài.
Điều
khoản 5
Bên
ký kết theo đánh cá chung của điều kiện môi trường
tự nhiên, đặc điểm của các nguồn tài nguyên sinh học,
phát triển bền vững và nhu cầu bảo vệ môi trường và
tác động của các hoạt động đánh bắt cá đối với
các bên để cùng nhau phát triển khu vực đánh cá chung
của việc bảo tồn các nguồn tài nguyên sinh học, quản
lý và các biện pháp sử dụng bền vững.
Điều
khoản 6
Ký
kết các bên phải tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và
cùng có lợi, dựa vào nguồn lợi thủy sản chung thường
xuyên trên cơ sở các kết quả nghiên cứu xác định
trong số lượng có thể tác động đối với các bên và
hoạt động đánh bắt cá, và sự cần thiết cho sự phát
triển bền vững, phù hợp với Hiệp định này theo Điều
XIII Ủy ban Liên hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ được thành
lập theo quyết định số lượng tàu thuyền đánh cá mỗi
năm các bên trong khu vực đánh cá chung.
Điều
khoản 7
Điều
1 - Đối với các bên trong những tàu đánh cá chung tham
gia vào hoạt động đánh bắt cá trong hệ thống phải có
giấy phép đánh bắt cá thực tế của chính mình. Giấy
phép đánh cá phải phù hợp với số lượng của Ủy ban
Hỗn Thủy sản Vịnh Bắc Bộ xác định rằng năm cấp
tàu cá và tên tàu đánh cá được cấp phép thông báo
cho bên kia ký kết biết. Các bên ký kết hợp đồng có
nghĩa vụ để nhập ngư dân đánh cá chung tham gia vào các
hoạt động đánh bắt cá trong giáo dục và đào tạo.
Điều
2 - Những người bước vào tàu đánh cá chung tham gia vào
các hoạt động đánh bắt cá có thẩm quyền của cơ
quan chính phủ của họ phải nộp một ứng dụng, và sau
khi nhận được giấy phép đánh cá trước khi vào đánh
cá chung tham gia vào các hoạt động đánh bắt cá. Bên ký
kết để vào tàu đánh cá chung tham gia vào các hoạt động
đánh bắt cá cần phải được xác định phù hợp với
quy định của Ủy ban hỗn hợp thủy sản Vịnh Bắc Bộ.
Điều
khoản 8
Bên
ký kết tham gia các hoạt động đánh bắt cá và tàu cá
theo Ủy ban Liên hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ về bảo tồn
và quản lý nguồn lợi thủy sản trong việc thực hiện
các quy định của hoạt động khai thác, phù hợp với
yêu cầu của Ủy ban hỗn hợp thủy sản Vịnh Bắc Bộ
vào nhật ký đánh bắt cá và đúng điều chung chuyển
cho các cơ quan chính phủ quốc gia trong thời gian quy định
cho phép.
Điều
khoản 9
Điều
1 - Theo Ủy ban chung về khu vực đánh bắt thuỷ sản Vịnh
Bắc Bộ phải phù hợp với đặc điểm chung và tuân thủ
của hai nước trên cơ sở bảo tồn và quản lý nguồn
lợi thủy sản về việc xây dựng quy định pháp luật
trong nước, các bên có thẩm quyền phổ biến điều các
bên ký kết cho các công dân và cả giám sát, thanh tra.
Điều
2 - Các Bên ký kết có thẩm quyền và tàu thuyền đánh
bắt cá trong khu vực của các vùng biển chung trong phạm
vi quy định của Uỷ ban Hỗn hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ,
được hưởng các quy định của Ủy ban hỗn hợp thủy
sản Vịnh Bắc Bộ, để các hành vi vi phạm được xử
lý và trách nhiệm bằng cách Ủy ban Hỗn hợp nghề cá
Vịnh Bắc Bộ thống nhất đối phó với tình hình và
kết quả kịp thời thông báo cho Bên kia. Bắt giữ tàu
cá và thuyền viên, khi được phát hiện kịp thời.
Điều
3 - Nếu cần thiết, cơ quan hợp đồng có thể ủy quyền
cho các bên hợp tác với nhau để Uỷ ban Hỗn hợp về
bảo tồn và quản lý nguồn lợi thủy sản cung cấp cho
chế biến giám sát chung và kiểm tra một vùng đánh cá
chung cho các hành vi vi phạm ngư trường Vịnh Bắc Bộ.
Điều
4 - Các bên có quyền pháp luật trong nước của mình mà
không có một giấy phép để nhập các vùng biển đánh
bắt cá chung trong lĩnh vực phụ của mình, mặc dù các
hoạt động đánh bắt cá giấy phép đủ điều kiện,
thuyền đánh cá chung vào các hoạt động thủy sản bên
ngoài không được tham gia vào các hoạt động trừng
phạt.
Điều
5 - Các bên ký kết sẽ tạo điều kiện cho việc có được
một giấy phép để các tàu thuyền đánh cá chung của
các Bên ký kết khác. Lạm dụng chức quyền, không được
ủy quyền cho các bên để cản trở các Bên ký kết khác
để có được giấy phép cho các công dân và các tàu
đánh bắt cá trong vùng đánh cá chung trong hoạt động
nghề cá bình thường. Bên ký kết nhận thấy các cơ
quan Đảng ký kết kia có thẩm quyền các biện pháp quản
lý nếu không phù hợp với Ủy ban hỗn hợp thủy sản
đồng Vịnh Bắc Bộ sẽ thành lập cơ quan hành pháp,
quyền yêu cầu một lời giải thích của các nhà tài
trợ, và nếu cần thiết, có thể được trình lên Ủy
ban hỗn hợp về nghề cá Vịnh Bắc Bộ được thảo
luận và giải quyết .
Điều
khoản 10
Bên
ký kết trong khuôn khổ khu vực đánh cá chung kích thước
vùng biển của mình, bạn có thể dùng bất cứ hình thức
hợp tác quốc tế hoặc liên doanh. Tất cả các giấy
phép đủ điều kiện trong khu vực hợp tác nghề cá
thông thường hoặc liên doanh tàu cá hoạt động đánh
bắt cá phải tuân thủ vào việc bảo tồn và quản lý
nguồn lợi thủy sản tại Ủy ban hỗn Thủy sản Vịnh
Bắc Bộ thành lập do việc đình chỉ giấy phép bên ký
phù hợp với các quy định của Vịnh Bắc Bộ mở rộng
Ủy ban hỗn hợp thủy sản được xác định, trong giấy
phép đánh cá chung do các bên ký kết và bên tham gia các
hoạt động đánh bắt cá trong vùng biển.
Trung
Cộng vẽ bản đồ độc quyền đánh bắt cá trong vùng
Vịnh Bắc Bộ. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Phần
3 của các thỏa thuận chuyển tiếp
Điều
khoản 11
Điều
1 - Các bên tham gia thch ứng với diện tích phổ biến
phía bắc (vĩ độ 20 độ kể từ khi bắt đầu) các hoạt
động đánh bắt cá hiện có trong vùng đặc quyền kinh
tế của bên ký kết khác để làm cho thỏa thuận chuyển
tiếp. Kể từ ngày có hiệu lực của Hiệp định này,
các thỏa thuận chuyển tiếp thực hiện. Bên ký kết sẽ
có những biện pháp để giảm dần các hoạt động đánh
bắt cá. Thỏa thuận chuyển tiếp từ thời điểm có
hiệu lực của Hiệp định này được ký kết trong vòng
bốn năm.
Điều
2 - Trên vùng biển trong phạm vi của thỏa thuận chuyển
tiếp và thỏa thuận chuyển tiếp được xây dựng bởi
các Bên ký kết sẽ được cung cấp các hình thức của
giao thức bổ sung, bổ sung Nghị định thư phần không
tách rời của Hiệp định này.
Điều
3 - Sau khi kết thúc các thỏa thuận chuyển tiếp, các Bên
ký kết sẽ được ưu tiên trong cùng điều kiện cho phép
các bên khác trong vùng đặc quyền kinh tế được vào
vùng tranh chấp thủy sản.
Phần
4 tàu thuyền đánh cá nhỏ đệm trong vùng.
Điều
khoản 12
Điều
1 - Để tránh một chiếc thuyền đánh cá nhỏ đi lạc,
các bên ký lãnh hải vùng biển tranh chấp, các bên ranh
giới rộng về phía nam dọc theo phần liền kề 10 hải
lý từ đường biên của điểm ranh giới đầu tiên giữa
hai nước kể từ lãnh hải, ra khỏi ranh giới phạm vi
tương ứng của 3 hải lý việc thành lập các mạch máu
nhỏ trong bộ đệm, phạm vi cụ thể của các điểm sau
đây lần lượt được giới hạn bởi các đoạn thẳng
nối các vùng nước:
1,
vĩ độ 21 độ 28 phút 12,5 giây, kinh độ 108 độ 06 phút
04.3 giây của điểm
2,
vĩ độ 21 độ 25 phút 40,7 giây, kinh độ 108 độ 02 phút
46,1 giây của điểm
3,
vĩ độ 21 độ 17 phút 52,1 giây, kinh độ 108 độ 04 phút
30,3 giây của điểm
4,
vĩ độ 21 độ 18 phút 29,0 giây, kinh độ 108 độ 07 phút
39,0 giây của điểm
5,
vĩ độ 21 độ 19 phút 05.7 giây, kinh độ 108 độ 10 phút
47,8 giây của điểm
6,
vĩ độ 21 độ 25 phút 41,7 giây, kinh độ 108 độ 09 phút
20,0 giây của điểm
7,
vĩ độ 21 độ 28 phút 12,5 giây, kinh độ 108 độ 06 phút
04.3 giây của điểm
Điều
2 - Các bên ký kết hợp đồng thông báo tàu đánh cá nhỏ
được tìm thấy ở vùng biển vùng đệm với hoạt động
đánh bắt cá, có thể được cảnh báo và các biện pháp
cần thiết để làm cho nó rời khỏi vùng biển, nhưng nó
phải được kiềm chế: không bị giam giữ, không bị
bắt, không trừng phạt hoặc sử dụng vũ lực. Nếu một
hoạt động nghề cá liên quan đến tranh chấp xảy ra,
nên được báo cáo Uỷ ban Hỗn hợp nghề cá Vịnh Bắc
Bộ mở rộng để được giải quyết, như tranh chấp
liên quan đến hoạt động khai thác diễn ra bên ngoài,
được phép của cơ quan chức năng có liên quan của hai
nước sẽ được giải quyết theo quy định của pháp
luật trong nước.
Phần
5 Ủy ban Liên hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ.
Điều
khoản 13
Điều
1 - Để thực hiện Hiệp định này, các bên quyết định
thành lập "Uỷ ban Hỗn hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ"
(sau đây gọi tắt là "COFI"). COFI do hai chính phủ
chỉ định đại diện và một số thành viên.
Điều
2 - COFI sẽ làm cho các quy định cụ thể đối với cơ
chế hoạt động của họ.
Điều
3 - trách nhiệm COFI cụ thể như sau:
(A)
việc bảo tồn nguồn lợi thủy sản trong vùng nước đàm
phán các hiệp định liên quan đến các vấn đề và sử
dụng bền vững, và đề nghị với Chính phủ hai nước;
(B)
đàm phán các hiệp định song phương về các vấn đề
liên quan đến hợp tác nghề cá nước, và đề nghị với
Chính phủ hai nước;
(C)
Theo Điều V của Hiệp định này, việc xây dựng bảo
tồn và quản lý các quy định thủy sản và thực hiện
nguồn đánh cá chung;
(D)
Theo Điều VI của Hiệp định này, các bên tham gia vào
mỗi năm để xác định số lượng cá thông thường của
tàu cá;
(E)
tư vấn và quyết định về các vấn đề khác liên quan
đến các khu vực đánh cá chung;
(F)
thực hiện chức năng của mình theo thỏa thuận chuyển
tiếp Nghị định thư bổ sung;
(G)
giải quyết các bộ đệm xảy ra trong tranh chấp đánh cá
nhỏ liên quan đến hoạt động thuỷ sản;
(H)
trong phạm vi chức năng của mình để giải quyết tranh
chấp đánh cá và hướng dẫn tai nạn hàng hải;
(I)
để đánh giá việc thực hiện Hiệp định này, hai chính
phủ phải báo cáo;
(J)
trong sự tôn trọng của Hiệp định, bổ sung các phụ
kiện và sửa đổi Hiệp định Nghị định thư sẽ kiến
nghị với Chính phủ hai nước;
(K)
các vấn đề khác của các bên cùng quan tâm để thương
lượng.
Điều
4 - Tất cả các khuyến nghị và quyết định phải chịu
sự đồng ý của COFI thay mặt cho các Bên ký kết.
Điều
5 - Họp COFI tổ chức một lần hoặc hai lần một năm,
luân phiên tại hai nước. Khi cần thiết, các bên đồng
ý tổ chức các cuộc họp đột xuất.
Phần
6 Các quy định khác.
Điều
XIV
Để
đảm bảo an toàn hàng hải, duy trì trật tự và an ninh
tại biển đánh cá, và một thỏa thuận xử lý nhanh
chóng và kịp thời vùng biển tai nạn hàng hải, các bên
lưu ý với các công dân của họ và hướng dẫn tầu cá,
giáo dục pháp luật và các biện pháp cần thiết khác.
Điều
XV
Điều
1 - Khi một bên ký kết và đánh cá ở phía biển của
một vụ đắm tàu, hoặc trường hợp khẩn cấp khác cần
sự giúp đỡ, thì bên kia có nghĩa vụ giải cứu và bảo
vệ tình hình một cách nhanh chóng thông báo cho cơ quan
chức năng của các Bên ký kết.
Điều
2 - Công dân Bên ký kết và đánh cá do thời tiết khắc
nghiệt hoặc trường hợp khẩn cấp khác yêu cầu sơ
tán, theo các quy định của Hiệp định này, phụ kiện
và COFI, được liên lạc với các Bên ký kết khác để
tị nạn bên kia. Các công dân và cả cho các đối tượng
của pháp luật có liên quan và các quy định của Bên ký
kết kia, và có thể ký hợp đồng với ban quản lý bên
kia.
Điều
XVI
Các
bên ký kết để đảm bảo quyền của người dân đánh
cá thông qua và điều hướng phương tiện tàu cá theo quy
định của các Bên ký kết khác "UNCLOS" của 10
tháng 12 năm 1982.
Điều
XVII
Điều
1 - Các bên sẽ hợp tác trong các thỏa thuận về nghề
cá vùng biển nghiên cứu khoa học và bảo tồn các nguồn
hải sản.
Điều
2 - các bên có thể tiến hành hợp tác nghiên cứu thỏa
thuận đánh cá quốc tế ở khía cạnh riêng của một
bên.
Phần
VII Điều khoản cuối cùng.
Điều
XVIII
Mọi
tranh chấp về việc giải thích hoặc áp dụng Hiệp định
này, phát sinh giữa các bên được giải quyết thông qua
hiệp thương hữu nghị.
Điều
XIX
Các
phụ lục của Hiệp định và Nghị định thư bổ sung
Hiệp định để hình thành một phần không thể tách rời
của Hiệp định này.
Điều
XX
Sau
khi tham khảo ý kiến, các Bên ký kết Hiệp định có
thể, để Hiệp định và Nghị định thư bổ sung Hiệp
định sửa đổi.
Điều
khoản 21
Tọa
độ đánh cá chung Hiệp định và Điều III, khoản 2 của
Điều XII của Hiệp định đánh cá nhỏ tọa độ địa
lý đệm từ đoạn đầu tiên được thỏa thuận phân
định Vịnh Bắc Bộ, bản vẽ đầy đủ của Vịnh Bắc
Bộ và số lượng bản đồ cảng Bắc Lôn chuyên đề.
Điều
22
Điều
1 - Hiệp định này sau khi các Bên ký kết thực hiện đầy
đủ các thủ tục pháp lý trong nước tương ứng của
họ, kể từ ngày trao đổi công hàm giữa Chính phủ hai
nước đã đồng ý để có hiệu lực.
Điều
1 - Thỏa thuận này có giá trị trong hai năm, sau đó sẽ
tự động gia hạn ba năm. Sau khi hết thời hạn kéo dài,
tiếp tục hợp tác thoả thuận của các bên ký kết hợp
đồng thông qua thương lượng.
Hiệp
định về ngày 25 tháng 12 năm 2000 tại Bắc Kinh đã ký
một bản sao trong đó có cả tiếng Hoa và tiếng Việt,
cả hai văn bản giá trị như nhau.
Chính
phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chính phủ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Đại
diện hai nhà nước đồng ký kết
Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp Trung Quốc
Trần
Diệu Bang (Chen Diệu Bang)
Bộ
trưởng Bộ Thuỷ sản Việt Nam
Tạ
Quang Ngọc (Xie Guangyu)
Đính
kèm File:
Quy
định cho sơ tán khẩn cấp
Đối
với việc thực hiện các quy định của Hiệp định này,
đoạn thứ hai của Điều XV:
Điều
1 - Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được
liên lạc chỉ định cho Biển Đông Thủy sản, Bộ Nông
nghiệp và giám sát ngư chánh ngư cảng. Chính phủ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được liên lạc
cho các Sở Thuỷ sản Dịch vụ Bảo tồn nghề cá.
Điều
2 - Việc sơ tán khẩn cấp phương tiện liên lạc của
các Bên ký kết thông báo cho nhau về các tập đoàn ngư
nghiệp (COFI).
Điều
3 - các nơi tạm trú liên lạc khẩn cấp bao gồm: tên, ký
cuộc gọi, khi vị trí của tàu (vĩ độ, kinh độ), cảng
đăng ký, tổng trọng tải, chiều dài, tên đội trưởng,
số lượng thuyền viên, căn cứ tị nạn, yêu cầu điểm
đến tị nạn, thời gian dự kiến đến và thông tin liên
lạc.
Bảo
vệ đất nước hay chấp nhận sự hao mòn và kiệt lực
trước năm 2020 ?
Tranh
chấp đánh bắt cá giữa Trung Cộng và Việt Cộng là một
tranh chấp quan trọng nhất tại Vịnh Bắc Bộ, Trung Cộng
buộc Việt Cộng phải nhượng mở rộng diện tích biển
cho phía Trung Cộng, ngoài việc phân định ranh giới, sắp
xếp lại quyền đánh bắt cá của ngư nghiệp Trung Cộng,
đối với Trung Cộng lãnh hải là một phần quan trọng
đàm phán biên giới miền Bắc Vịnh của Việt Nam. Đưa
đến phân định ranh giới giữa hai nước và cách thức
giải quyết các vấn đề ngư nghiệp dài hạn lợi ích
cho Trung Cộng, cuối cùng Việt Nam ký kết thỏa hiệp phi
lý nhất trong lịch sử nhân loại, như "Hiệp định
hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định
phân định Vịnh Bắc Bộ". Sau khi có hiệu lực các
hiệp ước, Trung Cộng tạo ra điều kiện phát triển
theo ý riêng của "Hiệp định hợp tác nghề cá".
Việc
ký kết các thỏa thuận, vì lợi ích hơn là ổn định
biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam. Trung Cộng không
ngại chiếm lấy khu vực Vịnh Bắc Bộ. Chữ ký chưa ráo
mực Trung Cộng di chuyển hơn 6.000 tàu thuyền đánh cá
tiến vào phía Tây vùng biển Vịnh Bắc Bộ, và bây giờ
họ đã cướp luôn phần phía Đông của vùng biển Vịnh
Bắc Bộ.
Vấn
đề phân định ranh giới giữa Trung Quốc và Việt Nam,
bao gồm cả đất liền, Vịnh Bắc Bộ, Biển Đông, Hoàng
Sa và Trường Sa. Trung Quốc chủ động thành hình 4 lịch
trình âm mưu "mịn":
1
- Từ ngày 30 tháng 12 năm 1999. Việt Nam đàm phán biên
giới đất liền kéo dài trong 22 năm.
2
- Đầu năm 2003, Việt Nam ký kết "Hiệp ước biên
giới lãnh thổ Trung-Việt". Hơn một nửa trong số
các quá trình phân giới cắm mốc đã được dựng lên.
3
- Cuối năm 2003, xác định hai bên xây dựng đặt cột
mốc nửa còn lại của biên giới.
4
- Năm 2020 hoàn tất đàm phám và ký kết hiệp định chư
hầu.
Cho
đến nay, các vùng lãnh thổ và lãnh hải có tranh chấp
quan trọng nhất tại Biển Đông, các chuyên gia Trung
Cộng-Việt Cộng trên biển đã thương lượng ngầm
(bán). Vấn đề tranh chấp quần đảo Trường Sa chỉ còn
lại hình thức. Hiện nay tư vấn hàng hải thường đặt
ra những câu hỏi "phân định lãnh hải phía Việt
Nam sẽ mất chủ quyền Biển Đông". Trung Cộng tranh
thủ các cơ chế không theo nguyên tắc của hiệp ước đã
ký, chủ yếu tìm kiếm sự đồng thuận trong đàm phán
với Việt Nam là chính, tạo ra mọi giải pháp thích hợp
nhất cho phép Trung Cộng thôn tính từng mảnh đất Việt
Nam cho đến năm 2020.
Chú thích:
[1]新华网河内6月30日电在中越北部湾划界协定和渔业合作协定生效之际.
---------------------------------------
Tiến
trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990
Kỳ
1
Tiến
trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990
Kỳ
2
Tiến
trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990
Kỳ
3
Tiến
trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990
Kỳ
4
Tiến
trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990
Kỳ
5
Tiến
trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990
Kỳ
6
Tiến
trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 Kỳ
7
No comments:
Post a Comment