Thursday, September 11, 2025

TIN TỔNG HỢP VIỆT NAM & QUỐC TẾ – NGÀY 10/09/2025

 



TIN TỔNG HỢP VIỆT NAM & QUỐC TẾ  -  NGÀY 10/09/2025

 

                                                        *****

 

Tỷ giá VND và Dollars khi Trung Quốc gom vàng lật dollars

Câu Chuyện Kinh Tế Thế Giới  -   GS TS Khương Hữu Lộc

SEP 5, 2025

https://www.youtube.com/watch?v=KwDyEaPZZWg

 

68,503 views Sep 5, 2025 #kinhtevietnam #ukrainenews #Ukraine

📌 Chào mừng quý vị đến với chương trình Câu Chuyện Kinh Tế Thế Giới cùng GS TS Khương Hữu Lộc.

 

Trong video tuần này, chúng ta sẽ cùng bàn luận về chủ đề Tỷ giá VND và Dollars khi Trung Quốc gom vàng lật dollars

 

00:00 Mở đầu

07:50 Lịch sử tỷ giá VND với USD vì sao mất giá

15:10 Vì sao tiền USD mất giá

18:27 Tỷ giá VND với USD sẻ tiếp tục mất giá hay láy lại quân bình

20:28 Tỷ giá VND với USD ảnh hưởng gì dến kinh tế quốc gia

28:00 Vai trò của vàng so với dollars và VND khi TQ gom vàng

33:08 Tại sao người Việt thích giữ vàng 37:00 Quốc gia nào giữ vàng nhiều

42:51 Giữ vàng có tốt cho kinh tế quốc gia hay không?

49:00 Dollars có thể sẽ bị thay thế hay không?

56:00 Giá vàng sẽ đầu tư hay phòng thủ trong những năm tới

 

📊 Tất cả các phân tích đều dựa trên dữ liệu thực tế, trung lập và phi chính trị, với góc nhìn tài chính – chiến lược sâu sắc từ GS. TS Khương Hữu Lộc.

---

📣 Đừng quên nhấn Đăng ký (Subscribe) và chuông thông báo 🔔 để không bỏ lỡ các video phân tích kinh tế – chính trị quốc tế mỗi tuần!

✔️ Like nếu thấy nội dung hữu ích

🕘 Phát sóng vào 19:00 (giờ Việt Nam) mỗi tuần

---

🔗 Kết nối với GS. TS Khương Hữu Lộc:

📧 Email: loc.h.khuong@gmail.com

 

 

 

 

 

 

Biểu tình hàng chục người chết ở Nepal: Chuyện gì đang xảy ra?

BBC News Tiếng Nepal

Emily Atkinson,  BBC News

Iftikhar Khan, Khu vực Nam Á

10 tháng 9 2025, 12:46 +07

https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cwy8403nrj1o

 

Thủ tướng Nepal KP Sharma Oli đã từ chức sau làn sóng phẫn nộ của công chúng về vụ 22 người thiệt mạng trong các cuộc đụng độ giữa cảnh sát và người biểu tình chống tham nhũng.

 

VIDEO : https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cwy8403nrj1o

Thế hệ Gen Z đã lật đổ thủ tướng Nepal trong 48 giờ ra sao?

 

Văn phòng Thủ tướng cho biết ông Sharma Oli từ chức để mở đường cho một giải pháp hợp hiến đối với các cuộc biểu tình quy mô lớn do giới trẻ lãnh đạo phản đối các cáo buộc tham nhũng lan rộng và bùng phát bởi lệnh cấm mạng xã hội - lệnh cấm này sau đó đã được rút lại.

 

Các cuộc biểu tình đã biến thành bạo lực khi hàng ngàn người - với nhiều người nhận là GenZ (Thế hệ Z) trên các biểu ngữ và áp phích - xuống đường ở thủ đô Kathmandu vào thứ hôm 8/9.

 

Gần 200 người được cho là đã bị thương trong các cuộc đụng độ khi lực lượng cảnh sát sử dụng hơi cay, vòi rồng và đạn thật để ngăn người biểu tình leo lên tường tòa nhà quốc hội và các tòa nhà chính thức khác.

 

Các cuộc biểu tình tiếp tục diễn ra vào hôm 9/9, với việc người biểu tình phóng hỏa tòa nhà quốc hội, trụ sở của Đảng Quốc đại Nepal và nhà của cựu Thủ tướng Sher Bahadur Deuba. Nhà của một số chính trị gia khác cũng đã bị phá hoại.

 

Dưới đây là những gì chúng tôi biết về các cuộc biểu tình.

 

XEM TIẾP >>>>>  

 

 

 

 

 

 

Ông Trump 'không hài lòng' khi Israel tập kích lãnh đạo Hamas ở Qatar

David Gritten

Paul Adams, Phóng viên ngoại giao, đưa tin từ Jerusalem

10 tháng 9 2025, 13:24 +07

https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c3drxd3d1p7o

 

Tổng thống Mỹ Donald Trump nói rằng ông "không hài lòng" về cuộc không kích hôm 9/9 của Israel nhằm vào Hamas ở Qatar, làm gia tăng áp lực quốc tế sau khi Tel Aviv mở rộng chiến dịch nhắm vào nhóm vũ trang Palestine chưa từng có tiền lệ.

 

Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu cho biết cuộc không kích này "hoàn toàn chính đáng" vì nhắm vào các lãnh đạo cấp cao của Hamas, những người đã tổ chức cuộc tấn công Israel ngày 7/10/2023, sự kiện châm ngòi cho cuộc chiến ở Gaza.

 

Hamas cho biết năm thành viên của họ đã thiệt mạng trong cuộc không kích của Israel, nhưng tuyên bố rằng âm mưu ám sát phái đoàn đàm phán của họ đã "thất bại".

 

Qatar lên án cuộc tấn công của Israel, gọi hành vi đó là "đê hèn" và "vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế".

 

Qatar là một đồng minh quan trọng của Mỹ trong khu vực, đồng thời là nơi đặt một căn cứ không quân lớn của Mỹ.

 

Khi được hỏi về các cuộc không kích của Israel nhằm vào Qatar, Tổng thống Donald Trump nói: "Tôi không hài lòng... Tôi chỉ thấy không hài lòng về toàn bộ tình hình. Đây không phải là một tình huống tốt.

 

"Nhưng tôi phải nói điều này, chúng tôi muốn các con tin được thả, nhưng chúng tôi không hài lòng về những gì đã diễn ra hôm nay", ông Trump nói với truyền thông.

 

Hamas cho biết nhóm đàm phán của họ đang họp tại một tòa nhà ở Doha để thảo luận về đề xuất ngừng bắn mới nhất của Mỹ tại Dải Gaza thì địa điểm này bị hư hại nặng nề bởi một loạt vụ nổ.

 

Bộ Nội vụ của Qatar thông báo một thành viên của Lực lượng An ninh Nội địa nước này đã thiệt mạng và những người khác bị thương, nhưng không đề cập đến thương vong nào của Hamas.

 

Hamas đặt trụ sở chính trị tại thủ đô Doha của Qatar từ năm 2012 và quốc gia Vùng Vịnh này cùng với Mỹ và Ai Cập trở thành trung gian hòa giải trong các cuộc đàm phán gián tiếp giữa Hamas và Israel.

 

Các nhân chứng ở Doha cho biết họ đã nghe thấy tám vụ nổ riêng biệt vào chiều 9/9, với những cột khói bốc lên ở khu vực Katara, phía bắc thành phố.

 

Cuộc không kích đã đánh trúng "các tòa nhà là nơi ở của một số thành viên Bộ Chính trị Hamas", theo chính quyền Qatar.

 

Chỉ sau vài phút, Israel đã lên tiếng nhận trách nhiệm về các vụ nổ.

 

Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) và cơ quan An ninh nội địa Shin Bet ra tuyên bố cho biết họ đã tiến hành "một cuộc tấn công chính xác nhằm vào giới lãnh đạo cấp cao" của Hamas.

 

Sau đó, Thủ tướng Netanyahu và Bộ trưởng Quốc phòng Israel Katz cho biết lực lượng an ninh Israel vào hôm 8/9 đã được lệnh chuẩn bị cho một cuộc tấn công có thể xảy ra "sau các vụ tấn công giết người ở Jerusalem và Gaza".

 

Đó là vụ hai tay súng Palestine giết chết sáu người Israel tại một trạm xe buýt ở Jerusalem và vụ bốn binh sĩ Israel thiệt mạng trong một cuộc tấn công vào trại lính ở thành phố Gaza.

 

"Thủ tướng và Bộ trưởng Quốc phòng tin rằng hành động này hoàn toàn chính đáng, xét đến việc chính giới lãnh đạo Hamas đã khởi xướng và tổ chức vụ thảm sát ngày 7/10, và kể từ đó đã không ngừng phát động các hoạt động giết người chống lại Nhà nước và công dân Israel", tuyên bố cho biết thêm.

 

Truyền thông Israel đưa tin rằng chiến dịch này có sự tham gia của 15 chiến đấu cơ Israel, phóng 10 quả đạn vào một mục tiêu duy nhất trong vòng vài giây.

 

Một quan chức Israel tiết lộ những thành viên Hamas bị nhắm mục tiêu bao gồm ông Khalil al-Hayya, trưởng đoàn đàm phán và là lãnh đạo lưu vong tại Gaza, và ông Zaher Jabarin, lãnh đạo lưu vong tại Bờ Tây.

 

XEM TIẾP >>>>>  

 

 

 

 

 

Lịch sử kỳ lạ của phong trào chống vắc xin

David Robert Grimes

BBC News

10 tháng 9 năm 2025

https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c306p07l7zno

 

Việc hoài nghi về vắc xin dường như là phong trào mới đang phát triển. Tuy vậy, nó đã xuất hiện lâu hơn bạn nghĩ.

 

HÌNH : https://ichef.bbci.co.uk/ace/ws/800/cpsprodpb/fefc/live/fe593d90-8ca1-11f0-b391-6936825093bd.jpg.webp

 

Kể từ thuở bình minh của lịch sử loài người, loài người chúng ta đã bị những loại virus khủng khiếp và bệnh dịch chết người bao vây.

 

Đậu mùa - một căn bệnh do virus gây ra với biểu hiện là những nốt mụn mủ đau đớn khắp cơ thể, là một trong những căn bệnh gây tử vong cao nhất, ước tính đã cướp đi sinh mạng của 300 triệu người chỉ riêng trong thế kỷ 20.

 

Căn bệnh này đã giết chết khoảng một phần ba số người bị nhiễm. Trong số những người sống sót, một phần ba bị mù. Hầu hết đều mang sẹo suốt đời.

 

Sự giàu có và khoảng cách địa lý đều không phải là lá chắn để chống lại căn bệnh. Trong số những nạn nhân của nó có Hoàng đế Joseph I của Áo, Vua Louis I của Tây Ban Nha, Hoàng hậu Mary II của Anh, Vua Louis XV của Pháp và Sa hoàng Peter II của Nga. Đến những năm 1800, bệnh đậu mùa đã giết chết trên 400.000 người/năm trên toàn thế giới.

 

Khi bác sĩ người Anh Edward Jenner phát triển phiên bản vắc xin đậu mùa đầu tiên vào năm 1796, ông hy vọng rằng mình có thể thay đổi lịch sử. Ông đã quan sát thấy những người vắt sữa có khả năng miễn dịch kỳ lạ với bệnh đậu mùa, có thể là do họ đã từng nhiễm đậu mùa bò - một loại virus có liên quan nhưng ít nguy hiểm hơn nhiều.

 

Để kiểm chứng ý tưởng rằng ông có thể tạo ra khả năng miễn dịch đậu mùa theo cách này, ông đã lấy mẫu từ vết loét đậu bò của một người vắt sữa và tiêm vào cánh tay của một đứa trẻ tám tuổi – một thí nghiệm không thể chấp nhận được theo tiêu chuẩn đạo đức y khoa hiện đại.

 

Cậu bé đã miễn dịch với bệnh đậu mùa. Jenner đặt tên cho phương pháp này theo tiếng Latin có nghĩa là "con bò", vacca – và vắc xin đầu tiên đã ra đời.

 

"Sự chấm dứt của bệnh đậu mùa, tai họa khủng khiếp nhất của loài người, hẳn phải là thành quả cuối cùng của việc này", ông Jenner viết vào năm 1801. Và ông đã đúng. Năm 1980, sau một chiến dịch y tế công cộng kéo dài hàng thập kỷ, bao gồm cả việc tiêm chủng rộng rãi, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã tuyên bố bệnh đậu mùa đã được xóa bỏ. Đây vẫn là căn bệnh truyền nhiễm duy nhất đạt được mục tiêu này.

 

Một loạt các loại vắc xin khác đã được phát triển để chống lại các bệnh khác, từ cúm đến nhiễm trùng do virus papilloma ở người gây ra một số bệnh ung thư và virus Sars-COV-2 gây ra Covid-19.

 

Trong 50 năm qua, ước tính 154 triệu sinh mạng đã được cứu sống nhờ vắc xin, theo một nghiên cứu gần đây.

 

Tuy nhiên, sự phản đối vắc xin - hoặc sự do dự trong việc chấp nhận chúng đang lan rộng và tăng lên ở nhiều nơi trên thế giới, thậm chí lan đến các nhánh cao nhất của chính phủ chịu trách nhiệm về cải thiện sức khỏe cộng đồng.

 

Tuần này, Bộ trưởng Y tế Hoa Kỳ Robert F. Kennedy Jr đã bị Ủy ban Tài chính Thượng viện chất vấn về chính sách vắc xin của mình, dẫn đến những cuộc tranh cãi nảy lửa. Cùng ngày, Tổng Y sĩ Florida cũng công bố kế hoạch chấm dứt lệnh bắt buộc tiêm vắc xin tại tiểu bang này.

 

Vậy, đây có phải là một hiện tượng mới xuất hiện gần đây, hay sự ngờ vực đối với vắc xin đã tồn tại từ lâu đời như chính những mũi tiêm chủng? Tại sao chúng lại vấp phải sự phản đối từ một bộ phận tương đối nhỏ nhưng lại có tiếng nói trong công chúng? Và những lập luận này đã phát triển như thế nào? Bài viết này sẽ điểm lại lịch sử lâu dài và kỳ lạ của phong trào chống vắc xin.

 

Trở lại đầu những năm 1800, một loạt các thí nghiệm có kiểm soát của Jenner và các bác sĩ khác đã nhanh chóng cho thấy việc tiêm chủng cực kỳ hiệu quả, mang lại khả năng miễn dịch chống lại bệnh đậu mùa cho hơn 95% số người được tiêm chủng. Các cơ quan y tế công cộng trên toàn thế giới đã hành động để triển khai chương trình này.

 

Tại Vương quốc Anh, một loạt các Đạo luật Tiêm chủng, được thông qua vào các năm 1840, 1853 và 1871, trước hết miễn phí việc tiêm chủng cho trẻ em, sau đó là bắt buộc.

 

Nhưng ngay lập tức, một thách thức khác lại xuất hiện: hàng loạt các liên đoàn phản đối tiêm chủng xuất hiện trên khắp cả nước.

 

Họ đã xuất bản những tập sách nhỏ với tiêu đề khiêu khích và phù hợp với phong cách gothic thời Victoria, như Vaccination, a Curse and Horrors of Vaccination, các tờ rơi, sách và thậm chí cả tạp chí chống tiêm chủng, bao gồm The Anti-Vaccinator (1869) và The Vaccination Inquirer (1879).

 

XEM TIẾP >>>>>  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

SỰ KIỆN TRONG NGÀY 10/9/2025

Event 09/10/2025 | FULL🔴

HOÀNG VY

Saigon TV 57.5

SEP 10, 2025

https://www.youtube.com/watch?v=R-OR_CDfNEk

 

 3,878 views  Premiered 2 hours ago #saigontv #sukientrongngay #hoangvy

-------

SAIGON TV📺

Thank you for supporting SaiGon TV 57.5

Like, Share and Subscribe to watch more videos

Event 09/10/2025 | FULL🔴

#saigontv #sukientrongngay #hoangvy

 

 

 

 

 

 

 

 

Ba Lan bắn hạ Shahed, kích hoạt điều 4 NATO. TT Zelensky: Putin nói gì với TT Trump? Johnson hiến kế

VietCatholicNews

Sep 10, 2025

https://www.youtube.com/watch?v=PUFosAUvx-Q

 

8,451 views   Sep 10, 2025

00:00:00 Đài Hiệu

00:00:20 Giới thiệu chương trình

00:00:35 Tổng thống Zelenskiy tiết lộ: Putin nói với Tổng thống Trump rằng Donbas sẽ sụp đổ trong '3 đến 4 tháng'

00:04:03 Chuyện phải đến đã đến: Ba Lan bắn hạ máy bay điều khiển từ xa của Nga sau nhiều lần vi phạm không phận

00:05:24 Pháp, Tây Ban Nha, Anh lên án vụ tấn công của Israel vào Qatar 00:10:06 Boris Johnson kêu gọi sự hiện diện của quân đội phương Tây tại Ukraine như một tín hiệu gửi tới Putin

00:13:15 Bộ trưởng Quốc phòng Anh cho biết Anh sẽ tài trợ 'hàng ngàn' máy bay điều khiển từ xa tấn công tầm xa cho Ukraine

00:16:58 Ba Lan yêu cầu NATO kích hoạt Điều 4 về vụ xâm nhập bằng máy bay điều khiển từ xa của Nga

00:19:31 Nguồn tin tình báo cho biết vụ nổ đã khiến 2 đường ống dẫn khí đốt của Nga ngừng hoạt động

00:22:13 Ba Lan bắt giữ điệp viên Belarus và sẽ trục xuất nhà ngoại giao, Thủ tướng Tusk nói

00:24:54 'Cực kỳ nguy hiểm' - Các nhà lãnh đạo Âu Châu lên án Nga sau khi máy bay điều khiển từ xa bị bắn hạ trên Ba Lan

00:29:21 Ba Lan đóng cửa biên giới Belarus do cuộc tập trận hạt nhân “hung hăng” của Nga, Thủ tướng Tusk nói

00:31:14 Ukraine cho biết hỏa tiễn Nga bắn trúng trụ sở chính phủ chứa hơn 30 bộ phận do nước ngoài sản xuất

00:34:24 Kết thúc

00:34:49 Closing Credits

 

 

 

 

 

Liệu trào lưu toàn cầu hóa sẽ kết thúc?

Đỗ Kim Thêm

11:44  10-9-2025 | Posted by BVN4

https://boxitvn.blogspot.com/2025/09/lieu-trao-luu-toan-cau-hoa-se-ket-thuc.html

 

HÌNH :

https://boxitvn.blogspot.com/2025/09/lieu-trao-luu-toan-cau-hoa-se-ket-thuc.html

Ảnh một thương thuyền chở container tại một cảng ở Santos, Brazil, tháng 4 năm 2025. Amanda Perobelli/Reuters

 

Tóm lược:

 

Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt hai thế kỷ qua, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng tổn thương.

 

Bài viết này nhằm phân tích những thành tựu và giới hạn của tiến trình toàn cầu hoá, từ đó làm rõ các xu hướng tái cấu trúc chuỗi giá trị cung ứng trong toàn cầu, sự cân nhằc trong tư duy về chính sách của các quốc gia, đặc biệt là chiến lược giảm rủi ro (De-risking). Qua các trường hợp thực tiễn như EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc và các nhóm nước đang phát triển, bài viết nhận định rằng toàn cầu hoá không thể chấm dứt, nhưng đang được tái định hình theo hướng khu vực hoá, phân cực địa chính trị và số hoá ngày càng mạnh mẽ.

 

Thành tựu của công nghiệp hoá

 

Cuộc Cách mạng công nghiệp khởi nguồn tại Anh vào năm 1763, đánh dấu bằng hàng loạt phát minh và việc ứng dụng các loại máy móc tiên tiến như máy kéo sợi, máy dệt và động cơ hơi nước. Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống giao thông đường thủy và đường sắt đã thúc đẩy quá trình hình thành và mở rộng các khu công nghiệp trên phạm vi rộng lớn. Một điểm nổi bật là hoạt động sản xuất không còn bị giới hạn bởi điều kiện địa lý tự nhiên như sức gió hay dòng nước. Song song với những tiến bộ trong lĩnh vực này, vai trò thông tin liên lạc, đặc biệt là điện báo, cùng với sự phổ biến của tàu hơi nước, đã mang lại những tiện ích quan trọng, góp phần nâng cao năng suất. Trào lưu công nghiệp hoá đã mở ra một kỷ nguyên mới, đánh dấu bước phát triển toàn diện của ngành công nghiệp hiện đại.

 

Ngay từ giai đoạn đầu, tiến trình chuyên môn hóa sản xuất giữa các quốc gia và khu vực đã hình thành như một hệ quả tất yếu của phân công lao động quốc tế và lợi thế so sánh. Việc giảm mạnh chi phí vận chuyển cho phép các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thị trường mới, đồng thời khai thác hiệu quả nguồn nguyên liệu thô và lao động. Hiệp định thương mại tự do giữa Vương quốc Anh và Pháp ký kết năm 1860 là dấu mốc quan trọng, tạo tiền đề cho sự chuyên môn hóa sâu hơn trong sản xuất. Trào lưu công nghiệp hóa nhanh chóng lan rộng sang các nước Bỉ, Hà Lan, Pháp, Đức và Thụy Sĩ, dẫn đến những thay đổi sâu rộng trong đời sống chính trị và xã hội trên khắp châu Âu.

 

 

Thành tựu của toàn cầu hoá

 

Nếu hiểu toàn cầu hoá đơn thuần là sự gia tăng mức độ tương thuộc xuyên lục địa, thì có thể khẳng định đây không phải là một hiện tượng hoàn toàn mới. Trước khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ, nền kinh tế toàn cầu đã xuất hiện các yếu tố tương thuộc nhất định, thể hiện qua sự di chuyển ngày càng mạnh mẽ của dân cư, hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, do các lợi ích kinh tế phân bố không đồng đều, tình trạng bất bình đẳng giữa các quốc gia và tầng lớp dân cư vẫn hiện hữu.

 

Sau Thế chiến thứ hai, dưới vai trò lãnh đạo nổi bật của Hoa Kỳ, xu hướng tương thuộc kinh tế giữa các quốc gia ngày càng gia tăng, đi cùng với sự củng cố tinh thần hợp tác đa phương. Hàng loạt định chế quốc tế quan trọng như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), và sau này là Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO, thành lập năm 1995) đã định hình nên trật tự thương mại toàn cầu. Đặc biệt nhất là WTO không chỉ ban hành nhiều quy tắc thương mại mới mà còn thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc pháp lý – một bước tiến lớn trong việc xây dựng hệ thống pháp lý thương mại đa phương. Đến nay, WTO có hơn 160 thành viên, chiếm khoảng 98% tổng kim ngạch thương mại toàn cầu, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của thương mại quốc tế và chuỗi cung ứng toàn cầu.

 

Trong phần lớn các cuộc tranh luận về phát triển kinh tế, thương mại vẫn luôn được xem là động lực chính thúc đẩy sự thịnh vượng quốc gia và hòa bình thế giới. Tuy vậy, theo thời gian, ngày càng có nhiều chỉ trích về những tác động tiêu cực của các chính sách thương mại đối với tiến trình toàn cầu hoá. Một số nhà kinh tế cho rằng thương mại quốc tế gây ra tổn thất nghiêm trọng, thể hiện qua việc hàng triệu việc làm bị mất hàng năm do cạnh tranh từ nước ngoài và thiệt hại về mặt bất ổn xã hội. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa hơn lại đến từ quá trình tự động hoá và những thay đổi này góp phần tăng năng suất toàn nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, các chính trị gia theo xu hướng dân túy thường dễ dàng quy trách nhiệm cho các yếu tố nước ngoài hơn là cho tiến bộ công nghệ.

 

Trên thực tế, toàn cầu hoá không chỉ bắt nguồn từ các hiệp định thương mại, mà còn chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tiến bộ công nghệ – đặc biệt là các phát minh trong lĩnh vực vận chuyển và truyền thông. Từ thập niên 1960 trở đi, việc phổ biến container hóa đã giúp giảm đáng kể chi phí vận chuyển hàng hóa qua đường biển, đường bộ và đường hàng không. Theo ước tính, trong giai đoạn 1970–2014, chi phí vận chuyển tính theo trọng lượng giảm khoảng 33–39%, còn tính theo giá trị thì giảm khoảng 48–62%. Điều này khiến chuỗi cung ứng toàn cầu trở nên hấp dẫn và hiệu quả hơn bao giờ hết. Đồng thời, sự phổ cập của máy tính và Internet đã giúp kết nối doanh nghiệp với khách hàng trên phạm vi toàn cầu trở nên dễ dàng hơn, tạo nên một lợi thế mang tính đột phá cho tiến trình toàn cầu hoá hiện đại.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc các doanh nghiệp đặt cơ sở sản xuất tại nhiều khu vực địa lý hoặc quốc gia khác nhau là một bước phát triển tất yếu của tiến trình phân công lao động quốc tế. Các doanh nghiệp nhanh chóng nhận thấy những lợi thế cụ thể như chi phí lao động thấp, cơ sở hạ tầng thuận lợi, hoặc nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao tại một số khu vực. Việc tận dụng các yếu tố này giúp doanh nghiệp giảm đáng kể chi phí sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế một cách tự nhiên.

 

Dựa trên xu hướng này, các tập đoàn đa quốc gia xây dựng những chuỗi giá trị linh hoạt, chuyên môn hóa từng công đoạn sản xuất tại nhiều khu vực khác nhau. Ví dụ, nguyên liệu thô có thể được khai thác tại một quốc gia, bán thành phẩm được chế biến ở một quốc gia khác, và sau cùng là lắp ráp hoàn chỉnh tại nơi có lợi thế tiếp cận thị trường tiêu thụ. Với chiến lược như vậy, doanh nghiệp không chỉ mở rộng quy mô sản xuất mà còn tối ưu hóa chi phí và triển khai hiệu quả các chiến lược tiếp thị toàn cầu. Mô hình sản xuất tối ưu hiện nay là chiến lược “đúng lúc – đúng nơi – đúng nhu cầu”, cho phép rút ngắn thời gian giao hàng và giảm thiểu tối đa chi phí vận chuyển.

 

 

Từ tình trạng phân mảnh kinh tế đến xung đột địa kinh tế

 

Tuy nhiên, kể từ đầu thập niên 2010, cục diện kinh tế toàn cầu đã trải qua nhiều thay đổi sâu sắc. Việc Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ như một cường quốc kinh tế đã khiến các quốc gia phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, gia tăng lo ngại về chiến lược xuất khẩu và tầm ảnh hưởng kinh tế ngày càng lớn của Trung Quốc. Đồng thời, các xung đột địa chính trị gia tăng cùng với làn sóng chủ nghĩa bảo hộ thương mại tại nhiều nước đã làm đảo lộn trật tự thương mại toàn cầu.

 

Hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008–2009 khiến dòng chảy thương mại và đầu tư quốc tế sụt giảm mạnh và không thể phục hồi nhanh chóng. Những sự kiện tiếp theo như Brexit (2016), chiến tranh thương mại Mỹ - Trung (2018), và đại dịch COVID-19 đã càng làm gia tăng xu hướng phân mảnh kinh tế.

 

Để ứng phó, các nhà hoạch định chính sách ở các nước phương Tây bắt đầu chú trọng việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu, hướng tới việc giảm mức độ phụ thuộc vào bên ngoài và tăng cường tính tự chủ chiến lược. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, Tổng thống Mỹ Donald Trump từng tuyên bố tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc rằng: “Tương lai không thuộc về những người theo chủ nghĩa toàn cầu, mà là những người yêu nước.” Tuyên bố này phản ánh sự thay đổi căn bản trong nhận thức về trật tự kinh tế toàn cầu, nơi mà phân mảnh và cô lập địa kinh tế dần trở thành đặc trưng chủ đạo.

 

Nếu năm 2010 chỉ có khoảng 104 biện pháp bảo hộ thương mại mới được ghi nhận trong toàn cầu, thì đến năm 2023, con số này đã tăng lên đến 1.125. Các biện pháp bao gồm tăng thuế nhập khẩu, trợ cấp tài chính, tín dụng ưu đãi từ chính phủ hoặc các hình thức hỗ trợ thương mại khác.

 

Khái niệm “phân mảnh địa kinh tế”, với trọng tâm là vai trò của địa chính trị, đã được thảo luận rộng rãi hơn. Động lực chính của trào lưu này không còn nằm ở hiệu quả kinh tế thuần túy mà chuyển sang các mục tiêu chiến lược và an ninh. Các khối kinh tế từng biệt lập đang bị chia cắt rõ rệt, buộc nhiều quốc gia theo đuổi các chính sách công nghiệp mới – đặc biệt trong những lĩnh vực như sản xuất chất bán dẫn, khai thác nguyên liệu chiến lược và phát triển hạ tầng kỹ thuật số. Mức độ can thiệp của chính phủ trong những lĩnh vực này ngày càng gia tăng, không chỉ để thúc đẩy phát triển kinh tế nội địa mà còn nhằm kìm hãm sự cạnh tranh của các đối thủ. Điều này dẫn đến sự phân tách sâu sắc trong chuỗi giá trị toàn cầu – cả về kinh tế lẫn chính trị.

 

Về mặt kinh tế, hậu quả trực tiếp là cùng một loại hàng hóa nay được sản xuất song song tại nhiều nơi khác nhau, gây ra tình trạng lãng phí tài nguyên, tăng chi phí sản xuất và làm suy giảm lợi ích từ chuyên môn hóa. Các doanh nghiệp đa quốc gia cũng phải đối mặt với hệ thống luật lệ và tiêu chuẩn không thống nhất hoặc thậm chí xung đột giữa các quốc gia, kéo theo trách nhiệm pháp lý ngày càng phức tạp. Khi chi phí vận hành gia tăng, động lực đầu tư sẽ giảm sút. Trái với kỳ vọng trước đây rằng các tập đoàn đa quốc gia sẽ là động lực lan tỏa công nghệ và tăng trưởng, thì trong bối cảnh mới, năng suất và tăng trưởng toàn cầu có khả năng bị chững lại.

 

Về mặt chính trị, một dấu mốc quan trọng là cuộc chiến Ukraine năm 2022 cùng với chính sách thương mại không ổn định của Tổng thống Donald Trump từ đầu năm 2025 – cả hai đều thúc đẩy nhanh tiến trình phân mảnh địa kinh tế.

 

Tình hình hiện nay cho thấy các trung tâm quyền lực kinh tế đang hình thành các khối cạnh tranh với nhau, không chỉ dựa trên lợi ích thương mại mà còn phục vụ cho các chiến lược an ninh.

 

Hoa Kỳ tỏ ra không còn tha thiết với việc duy trì vai trò lãnh đạo các thể chế quốc tế hay các liên minh quân sự truyền thống, điều này làm dấy lên lo ngại về khả năng bùng nổ các cuộc xung đột lớn. Khối liên minh xuyên Đại Tây Dương giữa EU và Hoa Kỳ đang nỗ lực thúc đẩy các khái niệm như “hữu nghị kinh tế” và “chủ quyền công nghệ”, song cũng gặp nhiều thách thức do các chính sách đơn phương từ phía Washington. Một số quốc gia châu Âu bắt đầu cân nhắc việc “giảm thiểu rủi ro” trong mối quan hệ lâu dài với Hoa Kỳ.

 

Trong khi đó, Nga không chỉ tiến hành chiến tranh tại Ukraine, mà còn tận dụng sự chia rẽ hiện nay để tìm cách khôi phục ảnh hưởng tại châu Âu, thông qua các đe dọa sử dụng vũ lực. Ngược lại, Trung Quốc đang ngày càng khẳng định vai trò chính tại châu Á, nơi họ thể hiện rõ tham vọng thống trị lãnh thổ và lãnh hải trong khu vực. Trung Quốc và Nga hiện đang tăng cường hợp tác kinh tế trong một cấu trúc đối trọng Á - Âu. Đồng thời, nhiều quốc gia thuộc khu vực Nam bán cầu – đặc biệt là nhóm BRICS – đang nỗ lực thoát khỏi sự lệ thuộc vào các thể chế tài chính và thương mại do phương Tây kiểm soát.

 

Các chiến lược giảm rủi ro

 

Trước những bất ổn địa chính trị ngày càng gia tăng, chính phủ các nước phương Tây ngày càng nhạy cảm hơn với các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia và khu vực, họ nhấn mạnh rằng ngay cả trong các lĩnh vực thương mại và đầu tư, tình trạng dễ bị tổn thương cần được xác định lại và kiểm soát nghiêm nhặt hơn. Trong bối cảnh này, một khái niệm mới đã ra đời: chiến lược giảm rủi ro.

 

Nội dung của chiến lược này không nhằm mục tiêu chấm dứt hoàn toàn mối tương thuộc kinh tế giữa các quốc gia, mà là tìm cách giảm thiểu sự phụ thuộc quá mức, đặc biệt trong những lĩnh vực có thể ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị và an ninh quốc gia trong tương lai. Sự thay đổi trong tư duy về chính sách này cho thấy các nhà hoạch định đã không còn xem hiệu quả kinh tế tối ưu của toàn cầu hóa là ưu tiên duy nhất; thay vào đó, họ bắt đầu đặt trọng tâm vào khả năng phục hồi địa kinh tế và an ninh chiến lược.

 

Trong một tài liệu chính thức công bố vào tháng 3 năm 2019, Liên minh châu Âu (EU) lần đầu tiên công khai mô tả Trung Quốc là một “đối thủ có hệ thống”, đồng thời cũng là “đối thủ cạnh tranh” và “đối tác hợp tác”. Đại dịch COVID-19 và cuộc chiến Ukraine càng khiến EU nhận thức rõ ràng hơn về mức độ dễ bị tổn thương của chuỗi cung ứng toàn cầu và sự lệ thuộc vào các yếu tố bên ngoài, đặc biệt trong các lĩnh vực chiến lược như năng lượng, y tế và công nghệ.

 

Để đối phó, EU đã áp dụng nhiều biện pháp cụ thể: triển khai cơ chế kiểm soát đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn khối, siết chặt quy định xuất khẩu, đa dạng hóa nguồn cung và xây dựng các kho dự trữ chiến lược. Đồng thời, EU cũng thúc đẩy việc ký kết các hiệp định thương mại khu vực với Mercosur (Nam Mỹ), Ấn Độ và ASEAN. Những nỗ lực này không chỉ nhằm giảm thiểu rủi ro từ sự phụ thuộc mà còn hướng đến mục tiêu phục hồi kinh tế thông qua các mối quan hệ đối tác chiến lược thay thế.

 

Sự tái cấu trúc chuỗi cung ứng trở nên rõ rệt nhất trong lĩnh vực năng lượng. Trước cuộc chiến Ukraine, khoảng 45% khí đốt tự nhiên của EU được nhập khẩu từ Nga (năm 2021); đến năm 2024, con số này đã giảm xuống chỉ còn 19%. Mức sụt giảm này xuất phát từ hai nguyên nhân chính: (1) tăng cường nhập khẩu từ các nguồn thay thế như Na Uy và Hoa Kỳ, và (2) giảm tiêu thụ khí đốt, từ 334 tỷ mét khối (năm 2021) xuống còn 273 tỷ mét khối (năm 2024).

 

 

Toàn cầu hóa có kết thúc không?

 

Câu trả lời là Không. Mặc dù hệ thống thể chế quốc tế hiện nay – tiêu biểu là Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) – đang lâm vào khủng hoảng chức năng, nhưng điều đó không có nghĩa là toàn cầu hóa sẽ chấm dứt. Các hoạt động chính của WTO gần như bị tê liệt do Mỹ ngừng hợp tác, khiến tổ chức không thể đóng vai trò hiệu quả trong đàm phán, giám sát và giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với một kịch bản bi quan toàn diện. Nhiều chính phủ và doanh nghiệp đang chủ động tái cấu trúc để ứng phó với các thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, dịch bệnh và an ninh công nghệ. Dư luận quốc tế cũng đang ngày càng ủng hộ các nỗ lực này.

 

Chủ thuyết bảo hộ và các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn có thể làm chậm lại tiến trình toàn cầu hóa, nhưng không thể đảo ngược hoàn toàn trào lưu. Trong thực tế, hàng tỷ người trên thế giới vẫn đang sử dụng Internet mỗi ngày, trong khi trí tuệ nhân tạo (AI) phát triển nhanh chóng, tốc độ, quy mô và phạm vi của truyền thông toàn cầu tăng theo cấp số nhân. Chừng nào công nghệ vẫn còn tiến bộ, thì toàn cầu hóa vẫn sẽ tiếp tục – dù dưới một hình thức khác.

 

Thách thức lớn nhất của toàn cầu hóa hiện nay là tái cấu trúc nền kinh tế toàn cầu dựa trên địa chính trị và địa kinh tế, sao cho có thể hướng dòng chảy thương mại và đầu tư đến những cấu trúc ổn định và đáng tin cậy hơn. Có hai luận điểm chính cần được đặt ra trong việc chuyển hướng này:

 

1.    Chiến lược giảm rủi ro sẽ dẫn đến việc giảm tốc độ của sự tương thuộc kinh tế xuyên quốc gia, nhất là trong những lĩnh vực nhạy cảm liên quan đến an ninh – như công nghiệp bán dẫn, khai thác nguyên liệu chiến lược, cơ sở hạ tầng kỹ thuật số và trao đổi dữ liệu. Việc tách rời kinh tế trong các lĩnh vực này là hệ quả khó tránh khỏi.

 

2.    Các quốc gia đang có xu hướng tìm kiếm các đối tác “cùng chí hướng” (like-minded countries) – tức là các nước có mức độ tin cậy chính trị cao và chia sẻ những chuẩn mực chung. Xu hướng này có thể dẫn đến sự hình thành các mối quan hệ kinh tế ổn định hơn, nhưng cũng đồng thời khu vực hóa các chuỗi cung ứng. Mạng lưới sản xuất và thương mại sẽ được định hình lại thông qua các hiệp định thương mại tự do song phương hoặc khu vực, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ số và tự động hóa. Hệ thống toàn cầu mang tính đa phương sẽ dần được thay thế bởi các cấu trúc mang tính khu vực, nơi mà các chuỗi giá trị mới sẽ hình thành và quyết định địa điểm sản xuất cũng sẽ thay đổi theo hướng chiến lược hơn.

 

Nếu giới lãnh đạo nhận thức rõ rằng được những lợi ích chung từ hợp tác khu vực có thể đạt được thông qua tiến trình hội nhập kinh tế, thì không thể kết luận rằng toàn cầu hóa sẽ chấm dứt. Thay vào đó, một mô hình toàn cầu hóa mới sẽ xuất hiện – tập trung vào khả năng phục hồi trước các cú sốc, lựa chọn đối tác chiến lược theo địa chính trị (friendshoring) và thúc đẩy sự độc lập về công nghệ.

 

Kết luận

 

Toàn cầu hoá không phải là một tiến trình tuyến tính hay bất biến, mà là liên tục và được tái cấu trúc theo những điều kiện lịch sử và địa chính trị cụ thể. Mặc dù các yếu tố như chủ thuyết bảo hộ, xung đột địa chiến lược và biến động chính trị đang làm chậm lại dòng chảy thương mại và đầu tư toàn cầu, nhưng không thể phủ nhận rằng toàn cầu hoá vẫn đang tiếp diễn – dưới những hình thức mới.

 

Sự chuyển hướng tập trung sang chiến lược giảm rủi ro cho thấy tư duy về chính sách toàn cầu đang dần thay đổi: từ ưu tiên hiệu quả tuyệt đối sang ưu tiên tính bền vững, ổn định và an ninh. Những khái niệm như “friendshoring”, “đa dạng hóa chuỗi cung ứng” hay “chủ quyền công nghệ” không chỉ phản ánh nhu cầu chiến lược của các quốc gia mà còn định hình lại cấu trúc toàn cầu trong thế kỷ XXI.

 

Trong bối cảnh đó, một mô hình toàn cầu hoá mới có thể xuất hiện – nơi mà tính linh hoạt, khả năng phục hồi và mức độ tin cậy giữa các quốc gia trở thành nền tảng hợp tác. Mặc dù những rủi ro và bất định vẫn tồn tại, nhưng nếu các quốc gia biết tận dụng cơ hội tái cấu trúc hiện nay để xây dựng các thể chế đa phương phù hợp, thì cuối cùng, toàn cầu hoá không chỉ tiếp tục tồn tại mà còn có thể trở nên công bằng và hiệu quả hơn trong tương lai.

 

Đ. K. T.

Tác giả gửi BVN

 

 

 

 

 

MỸ KHÔNG THỂ ĐƠN ĐỘC SÁNH VỚI TRUNG QUỐC. NHƯNG CÙNG ĐỒNG MINH, CUỘC CHƠI SẼ KHÔNG CÓ ĐỐI THỦ

Kurt Campbell và Rush Doshi – New York Times, 7/9/2025

Hoàng Anh Tuấn, biên dịch

8 tháng 9, 2025  lúc 12:10 

https://www.facebook.com/tuan.hoang.1428/posts/pfbid0Zww243iXuFri3FqTqjw8yq6p89RSLPwjHDaxcZnHAmNHN84hog5etQ6jKcHAZ4VPl

 

Đã rất lâu mình không đọc New York Times, mặc dù cách đây 25-30 năm là tờ báo phải đọc hàng ngày. Nhưng bài XÃ LUẬN của NYT ngày CN 7/9/2025 vừa rồi là bài đáng đọc để suy ngẫm. Xin giới thiệu cùng mọi người

-----------

 

[MỸ KHÔNG THỂ ĐƠN ĐỘC SÁNH VỚI TRUNG QUỐC. NHƯNG CÙNG ĐỒNG MINH, CUỘC CHƠI SẼ KHÔNG CÓ ĐỐI THỦ]

(Bài viết của Kurt Campbell và Rush Doshi – New York Times, 7/9/2025)

 

Giới thiệu tác giả:

 

KURT CAMPBELL: Nhà ngoại giao kỳ cựu, từng giữ chức Phó Ngoại trưởng phụ trách châu Á trong chính quyền Tổng thống Joe Biden. Ông giữ nhiều vị trí trong các chính quyền Clinton, Obama và Biden, được coi là một trong những kiến trúc sư chính sách “Trục xoay châu Á” của Mỹ.

 

RUSH DOSHI: Nguyên Phó Giám đốc cấp cao phụ trách Trung Quốc và Đài Loan tại Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ dưới thời Tổng thống Joe Biden, tác giả cuốn The Long Game: China’s Grand Strategy to Displace American Order (Chiến lược dài hạn: Đại chiến lược của Trung Quốc nhằm thay thế trật tự do Mỹ dẫn dắt).

 

Dưới đây là nội dung bài viết:

 

"Lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, Hoa Kỳ phải đối diện một đối thủ — Trung Quốc — quốc gia có quy mô vượt trội ở hầu hết các lĩnh vực sức mạnh trọng yếu, và năng lực quốc gia của riêng Mỹ có thể không đủ để đối phó với thách thức này.

 

Chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mà thước đo thực sự của vị thế Mỹ sẽ nằm ở việc Washington có thể xây dựng điều mà chúng tôi gọi là quy mô đồng minh: sức mạnh cạnh tranh toàn cầu khi hợp tác cùng các quốc gia khác trên các lĩnh vực kinh tế, công nghệ và quân sự.

 

Tổng thống Trump dường như đang đi ngược chiều. Cách tiếp cận ngoại giao đơn độc, đặt nặng thuế quan đã khiến đồng minh xa cách và tạo khoảng trống để Bắc Kinh củng cố liên minh riêng. Việc ông Trump gần đây áp thuế cao với Ấn Độ chỉ là một ví dụ. Hoa Kỳ đã dành ba thập kỷ tranh thủ Ấn Độ như một đối trọng địa chính trị với Trung Quốc. Nhưng sau khi các mức thuế được áp lên Ấn Độ, Thủ tướng Narendra Modi tuần trước đã tới thăm Trung Quốc lần đầu tiên trong bảy năm, nơi ông và Chủ tịch Tập Cận Bình đồng ý vượt qua quá khứ căng thẳng và hợp tác như đối tác chứ không phải đối thủ. Ông Trump đang đùa với lửa.

 

Trong suốt thế kỷ 20, Mỹ vượt trội về sản xuất và đổi mới so với Đức, Nhật Bản và Liên Xô. Nhưng Trung Quốc lại khác. Ở những chỉ số then chốt trong cạnh tranh chiến lược, Trung Quốc đã vượt Mỹ.

 

Nền kinh tế của Trung Quốc, dù tăng trưởng chậm lại, vẫn lớn hơn gần 30% so với Mỹ nếu tính theo sức mua. Trung Quốc có năng lực sản xuất gấp đôi, tạo ra nhiều ô tô, tàu biển, thép và pin mặt trời hơn hẳn Mỹ, đồng thời chiếm hơn 70% lượng pin, xe điện và khoáng sản quan trọng của thế giới. Trong khoa học và công nghệ, Trung Quốc có nhiều bằng sáng chế hoạt động và các ấn phẩm được trích dẫn hàng đầu hơn Mỹ. Về quân sự, Trung Quốc có hạm đội hải quân lớn nhất thế giới, năng lực đóng tàu ước tính lớn gấp hơn 230 lần Mỹ và đang nhanh chóng khẳng định vị thế dẫn đầu trong lĩnh vực vũ khí siêu vượt âm, máy bay không người lái và truyền thông lượng tử.

 

Trung Quốc cũng có những vấn đề của riêng mình, như dân số già và suy giảm, công suất công nghiệp dư thừa, tài chính nhà nước mong manh và nợ cao. Nhưng bất kỳ chiến lược nghiêm túc nào của Mỹ đối với Trung Quốc cũng phải đối diện với châm ngôn thời Chiến tranh Lạnh: “Số lượng tự nó mang một chất lượng riêng.”

 

Sự trỗi dậy và suy tàn của các cường quốc lớn thường gắn với quy mô — tức kích thước, nguồn lực và năng lực làm cho một quốc gia trở nên hùng mạnh. Khi các quốc gia đạt mức năng suất kinh tế tương đương, những nước có dân số lớn hơn và tiếp tục mở rộng sẽ cuối cùng vượt lên. Lợi thế tiên phong của Anh trong Cách mạng Công nghiệp đã nhường chỗ khi những nước lớn hơn như Mỹ và Nga bắt kịp. Trong thế kỷ 20, Mỹ và đồng minh đã đối mặt thách thức từ Hitler; Đô đốc Isoroku Yamamoto, kiến trúc sư trận Trân Châu Cảng, từng kết luận rằng ông chỉ có thể tung hoành ở Thái Bình Dương trong một thời gian ngắn trước khi sức mạnh công nghiệp Mỹ nghiền nát Nhật Bản.

 

Ngày nay, hy vọng lớn nhất của Mỹ để sánh kịp Trung Quốc nằm ở việc tối đa hóa sức mạnh của chính mình thông qua các liên minh. Điều này có nghĩa không còn coi đồng minh Mỹ như những kẻ phụ thuộc dưới sự bảo vệ của chúng ta, mà là đối tác cùng nhau xây dựng sức mạnh bằng cách chia sẻ thị trường, công nghệ, năng lực quân sự và công nghiệp. Đầu tư vào sự tái thiết của Mỹ là cần thiết, nhưng tự nó thì chưa đủ.

 

Nếu đứng một mình, Mỹ sẽ nhỏ hơn Trung Quốc trên nhiều chỉ số quan trọng. Nhưng khi kết hợp với các nền kinh tế như châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Ấn Độ, Canada, Mexico, Đài Loan và những nước khác, thì không còn sự so sánh. Liên minh này sẽ có GDP hơn gấp đôi Trung Quốc (tính theo sức mua), chi tiêu quân sự hơn gấp đôi, là đối tác thương mại số một của hầu hết các quốc gia, và chiếm một nửa sản xuất toàn cầu so với một phần ba của Trung Quốc. Liên minh này cũng sẽ sở hữu nguồn nhân lực sâu rộng hơn, tạo ra nhiều bằng sáng chế và công trình nghiên cứu được trích dẫn hàng đầu hơn, và nắm trong tay quyền lực thị trường đủ để ngăn chặn sự cưỡng ép từ Trung Quốc. Quy mô đồng minh sẽ quyết định tương lai.

 

Trên các chỉ số then chốt, Mỹ cần đồng minh và đối tác để vượt Trung Quốc

(GDP, tỷ trọng sản xuất toàn cầu, chi tiêu quân sự, trích dẫn học thuật, ấn phẩm, bằng sáng chế đang có hiệu lực — biểu đồ kèm trong bài viết.)

 

Mục tiêu không phải là kiềm chế Trung Quốc — điều bất khả thi — mà là cân bằng. Chỉ thông qua quan hệ đối tác chúng ta mới có thể bảo vệ nền tảng công nghiệp, lợi thế công nghệ và năng lực ngăn chặn Trung Quốc.

 

Chính quyền Biden ưu tiên thuyết phục trong việc lôi kéo các nước khác. Họ đã giúp thành lập Hội đồng Thương mại và Công nghệ với châu Âu; nâng tầm nhóm “Bộ Tứ” gồm Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và Úc để cân bằng ảnh hưởng gia tăng của Trung Quốc; đạt được thỏa thuận tàu ngầm hạt nhân với Úc và Anh; và ký kết các thỏa thuận mới về kiểm soát xuất khẩu và thương mại.

 

Ông Trump không hoàn toàn xa lạ với cách tiếp cận này. Trong nhiệm kỳ đầu, ông đã thúc đẩy các sáng kiến như Thỏa thuận Abraham ở Trung Đông, ký hiệp định thương mại Mỹ-Mexico-Canada, và khởi động lại Bộ Tứ. Nhưng ông thường thoải mái hơn với cách tiếp cận ép buộc song phương, điều đã khiến đồng minh xa cách.

 

Điều này nay lại lặp lại. Chiến thuật cứng rắn của ông Trump nhắm vào chính những nền kinh tế mà Mỹ cần kéo lại gần hơn. Ngay cả những cái “bắt tay” thương mại với Nhật Bản, Hàn Quốc và châu Âu cũng chỉ tập trung hẹp vào việc giảm thâm hụt thương mại song phương, tăng thu thuế và nhận các cam kết đầu tư mơ hồ, thay vì cân bằng Trung Quốc. Các đồng minh Mỹ đã công khai ví cách tiếp cận của ông với hình ảnh “chủ nhà thu tiền thuê.” Uy tín toàn cầu của Mỹ đã tụt dốc, thậm chí tụt sau Trung Quốc ở nhiều nước.

 

Một con đường kiểu Trump để đạt quy mô đồng minh, nếu có, có lẽ sẽ dựa nhiều vào ép buộc. Điều đó có thể tạo ra nhượng bộ ngắn hạn từ các đối tác đang gặp khó, nhưng về lâu dài sẽ làm cạn kiệt niềm tin. Ông Trump không sai khi muốn đòi hỏi nhiều hơn từ đồng minh. Nhưng ông đang lãng phí lợi thế quý báu của Mỹ vào những mục tiêu sai lầm. Thay vì chấp nhận những cam kết mơ hồ từ đối tác thương mại, ông nên thúc ép họ có những khoản đầu tư lớn và cụ thể trong dài hạn vào các lĩnh vực có thể khơi dậy công nghiệp hóa lại của Mỹ. Thay vì tập trung vào các tranh chấp vụn vặt — như cố gắng bán nhiều gạo Mỹ hơn sang Nhật Bản — ông nên yêu cầu họ cam kết xây dựng một bức tường thuế quan và quy định đa phương để bảo vệ nền công nghiệp của các quốc gia khỏi việc bị Trung Quốc bòn rút bằng chủ nghĩa trọng thương.

 

Đích đến đã rõ. Nếu Nhật Bản và Hàn Quốc thực hiện cam kết giúp ngành đóng tàu của Mỹ, Đài Loan xây thêm nhà máy bán dẫn ở Mỹ, và Mỹ bán một số công nghệ quân sự tiên tiến nhất cho đồng minh — tất cả trong khuôn khổ các thỏa thuận thương mại tốt hơn rồi mở rộng sang Trung Quốc — điều đó sẽ phù hợp với ưu tiên của ông Trump và có thể trở thành mẫu mực cho các thỏa thuận tương lai. Những luồng hợp tác hai chiều này có thể nhận được ủng hộ lưỡng đảng và sự đồng thuận từ các đối tác quốc tế. Đây là một con đường đến quy mô đồng minh có thể khả thi.

 

Điều sẽ không hiệu quả là trừng phạt bạn bè trong khi lại ve vãn Bắc Kinh. Việc trao cho Trung Quốc giảm thuế hoặc quyền tiếp cận chất bán dẫn Mỹ để đổi lấy những lời hứa mơ hồ mua hàng Mỹ sẽ chỉ mang lại lợi ích thoáng qua nhưng gây tổn hại lâu dài đến vị thế của Mỹ. Nó có thể khiến các đối tác tiềm năng xa lánh và quay sang Trung Quốc, như cách Ấn Độ dường như đang làm.

 

Lợi thế độc nhất của Mỹ trong bức tranh quyền lực toàn cầu chính là các đồng minh và đối tác. Nhiều quốc gia trong số này, vì lo sợ bị bỏ rơi, sẵn sàng nhượng bộ ông Trump theo những cách ít ai ngờ tới. Dưới sức ép của Mỹ, Hàn Quốc đã đưa ra các khoản đầu tư lớn vào đóng tàu, Việt Nam tuyên bố sẽ bãi bỏ toàn bộ thuế quan đối với hàng hóa Mỹ, và châu Âu đang gia tăng chi tiêu quân sự. Những quốc gia này sẵn sàng làm nhiều hơn những gì mà các nước ông Trump theo đuổi, như Nga và Trung Quốc, từng làm.

 

Chưa quá muộn để Washington xây dựng quy mô đồng minh, ngay cả thông qua phong cách ép buộc của ông Trump. Nhưng nếu tổng thống không định hướng lại đòn bẩy của mình vào mục tiêu cân bằng năng lực áp đảo của Trung Quốc, ông sẽ khiến nước Mỹ trở nên nhỏ bé và đơn độc hơn.

 

Như vậy thế kỷ tiếp theo, sẽ là thế kỷ mà Trung Quốc để mất."

 

 

 

 

 

 

Các cuộc không kích của Nga ngày càng chết chóc và quy mô lớn hơn, đánh thẳng vào trung tâm Ukraine

Sarah Rainsford

Phóng viên BBC tại Kyiv

10 tháng 9 2025, 16:30 +07

https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cly65lk05ddo

 

Ukraine đã cho các phóng viên xem các mảnh vỡ của tên lửa, được xác định là tên lửa hành trình Iskander của Nga, mà nước này cho là đã bắn trúng một tòa nhà chính phủ quan trọng ở Kyiv vào cuối tuần này.

 

https://ichef.bbci.co.uk/ace/ws/800/cpsprodpb/b4e5/live/735cba30-8db1-11f0-941e-3b5f5bf2b64c.png.webp

Các nhà báo được chứng kiến ​​cảnh tầng trên cùng bị phá hủy của tòa nhà chính phủ Ukraine tại Kyiv sau cuộc không kích của Nga

 

Các quan chức ở đây hiện tin rằng tòa nhà đã bị tấn công có chủ đích vào sáng sớm ngày 7/9.

 

Phản ứng của ông Vladimir Putin trước những nỗ lực hòa bình của ông Donald Trump là sự leo thang rõ ràng trong các cuộc tấn công của Nga.

 

Nhưng họ không chỉ nhắm vào thủ đô Ukraine.

 

Ở phía Đông khu vực Donbas, hơn 20 thường dân đã thiệt mạng do một quả bom lượn của Nga vào ngày 9/9 khi họ đang xếp hàng để nhận lương hưu.

 

Ông Volodymyr Zelensky lên án cuộc tấn công vào làng Yarova là "hung bạo" và một lần nữa kêu gọi các đồng minh của Ukraine tăng cường gây áp lực lên Moscow thông qua các lệnh trừng phạt.

 

Văn phòng của ông cho biết một số linh kiện vũ khí của Mỹ và châu Âu vẫn đang được chuyển đến Nga, bao gồm cả tên lửa Iskander. Moscow đã thay thế phần còn lại bằng sản phẩm nội địa.

 

"Cần phải có hành động mạnh mẽ để buộc Nga ngừng gây ra chết chóc", tổng thống Ukraine viết.

 

Nhóm chúng tôi đang quay phim vào sáng ngày 7/9 trong cuộc không kích vào trung tâm Kyiv và ghi lại khoảnh khắc nội các bị tấn công. Hình ảnh dường như cho thấy một cuộc tấn công trực tiếp: một tên lửa đột nhiên bay vòng xuống dưới, ngay trước khi phát nổ.

 

Không có dấu hiệu nào cho thấy nó bị hệ thống phòng không chặn lại.

 

Khi chúng tôi được phép vào tòa nhà rộng lớn xây từ thời Liên Xô để xem thiệt hại, mùi khét càng nồng nặc hơn khi chúng tôi leo lên tầng cao nhất.

 

Mái nhà và một phần tường ở khu vực bị hư hại đã bị thổi bay và có một lỗ hổng lớn trên sàn nhà.

 

Xung quanh, những sợi cáp đứt lủng lẳng trên những gì còn sót lại của trần nhà.

 

XEM TIẾP >>>>>  

 

 

 


No comments: