Độc Lập của Việt Nam
năm 1945 có ý nghĩa gì
Vậy
là tám mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Việt Nam chính thức tuyên bố sự ra đời của
một quốc gia có chủ quyền. Trong hơn ba phần tư thế kỉ ấy, dân tộc này đã đi
qua những bước ngoặt dữ dội nhất của lịch sử hiện đại, từ thời khắc chiều mồng
2 tháng Chín năm 1945 khi bản Tuyên ngôn độc lập vang lên tại Quảng trường Ba
Đình cho đến những thập niên chiến tranh, chia cắt, rồi thống nhất, xây dựng và
hội nhập. Tám mươi năm không phải là quãng thời gian dài trong chiều sâu lịch sử
nhưng cũng đủ để một quốc gia tự nhìn lại, tự vấn và tự đánh giá những thành tựu
đã đạt được cũng như những giới hạn còn trước mắt.
Tôi
viết những dòng này trong tâm thế của một công dân Việt Nam, dù đang sống ở nước
ngoài, vừa thành thật với cảm thức của mình, vừa muốn dựa trên những dữ kiện lịch
sử đã được xác thực nhằm giữ cho cách diễn đạt không bị chi phối bởi cực đoan
chính trị hay thiên kiến cảm tính. Bởi vì tôi tin rằng nếu có điều gì cần làm để
trân trọng nền độc lập ấy thì đó chính là thái độ tỉnh táo và công bằng, không
phủ nhận cũng không thần thánh hóa.
Độc
lập của Việt Nam năm 1945 có ý nghĩa gì. Đầu tiên, đó là sự khẳng định về quyền
tự quyết chính trị của một dân tộc đã trải qua hơn một nghìn năm chịu ảnh hưởng
và nhiều lần bị cai trị trực tiếp bởi các triều đại Trung Hoa. Trong suốt thời
kì Bắc thuộc, người Việt không ngừng chống lại sự đồng hóa. Khởi nghĩa Hai Bà
Trưng, khởi nghĩa Bà Triệu, những cuộc nổi dậy của Lý Bí hay Mai Thúc Loan, tất
cả đều cho thấy khát vọng tự chủ bền bỉ. Mặc dù kể từ chiến thắng Bạch Đằng năm
938 dưới thời Ngô Quyền, dân tộc Việt đã có quốc gia độc lập trên danh nghĩa,
song sự đe dọa của phương Bắc chưa bao giờ dừng lại. Nền độc lập của chúng ta
trong vài thế kỉ sau đó vì thế vẫn phải mang nặng tính phòng vệ, luôn trong trạng
thái mong manh, vừa bảo vệ cương vực vừa duy trì bản sắc văn hóa.
Đến
nửa cuối thế kỉ 19, một làn sóng ngoại xâm khác từ phương Tây tràn đến. Thực
dân Pháp đặt ách thống trị trực tiếp, biến Việt Nam thành thuộc địa và bán thuộc
địa trong gần một thế kỉ. Trong thời kì ấy, Việt Nam đã mất đi vị thế của một
quốc gia độc lập theo đúng nghĩa pháp lí quốc tế. Quyền lực nằm trong tay chính
quyền bảo hộ, kinh tế bị khai thác, xã hội bị chia rẽ sâu sắc. Tầng lớp trí thức
xuất hiện các nỗ lực cải cách. Phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, phong trào
Duy Tân của Phan Châu Trinh, các hoạt động khởi nghĩa vũ trang như của Phan
Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám… tất cả đều thể hiện tinh thần tìm đường cứu nước.
Tuy nhiên, không con đường nào mang lại kết quả trọn vẹn. Những thất bại đó cho
thấy sự khốc liệt của quá trình giành độc lập trong bối cảnh thế giới ràng buộc
bởi chủ nghĩa thực dân và trật tự quốc tế đầy bất bình đẳng.
Chính
vì thế, sự kiện Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công và bản Tuyên ngôn độc lập
vang lên tại Quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng Chín có giá trị lịch sử đặc biệt.
Nó đánh dấu sự hiện diện của Việt Nam trên bản đồ chính trị quốc tế như một quốc
gia có chủ quyền. Tất nhiên, ngay từ đầu nền độc lập ấy đã đứng trước những
thách thức vô cùng lớn. Tình thế chính trị lúc bấy giờ có thể nói là “ngàn cân
treo sợi tóc”. Ở miền Bắc, quân Tưởng Giới Thạch tiến vào giải giáp quân Nhật. Ở
miền Nam, quân Anh kéo vào, mở đường cho quân Pháp trở lại. Các đảng phái trong
nước cũng chia rẽ. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi mới ra đời đã ở thế rất
yếu. Việc giành và giữ nền độc lập trong bối cảnh ấy không hề là điều hiển
nhiên.
Có
nhiều ý kiến cho rằng nền độc lập năm 1945 là kết quả của một loạt ngẫu nhiên lịch
sử, rằng sự thất bại của Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai đã tạo cơ hội hiếm
hoi. Nhận định ấy không sai, nhưng cũng cần lưu ý rằng cơ hội lịch sử chỉ trở
thành hiện thực khi có lực lượng chính trị biết nắm bắt. Nếu không có sự chuẩn
bị tổ chức và huy động quần chúng từ trước đó, cơ hội có thể cũng sẽ trôi qua.
Do vậy, dù nhìn từ góc độ nào, việc giành lại nền độc lập trong thời điểm đó vẫn
xứng đáng được coi là bước ngoặt.
Giá
trị thứ hai của độc lập chính là mở ra khả năng thống nhất và phát triển. Lịch
sử hiện đại của Việt Nam là một chuỗi đứt gãy với những cuộc xâm lăng và chia cắt
bởi ngoại lực. Từ hiệp định Genève năm 1954, đất nước bị chia làm hai miền với
hai thể chế chính trị đối lập nhau. Điều đó đẩy dân tộc vào một cuộc chiến
tranh - vừa là chống xâm lược, vừa là đối đầu ý thức hệ, lại vừa là nội chiến -
kéo dài suốt 21 năm. Kết thúc chiến tranh tháng Tư năm 1975, đất nước được thống
nhất về mặt lãnh thổ. Dù con đường dẫn đến thống nhất đã trả giá quá đắt với
hàng triệu sinh mạng và bao nhiêu vết thương, thì kết quả cuối cùng chính là một
quốc gia toàn vẹn lãnh thổ từ Bắc vào Nam. Đây là một điều kiện cần thiết để
phát triển. Một đất nước bị chia cắt khó có thể xây dựng được nội lực, khó có
thể ổn định để hướng ra thế giới.
Tuy
nhiên, nói đến độc lập không thể bỏ qua câu hỏi quan trọng: độc lập có đồng
nghĩa với tự do của mỗi công dân không. Đây là điểm khiến nhiều người còn băn
khoăn, thậm chí tranh cãi gay gắt. Độc lập bảo đảm cho một quốc gia không lệ
thuộc ngoại bang, nhưng chưa chắc bảo đảm cho người dân của quốc gia ấy được hưởng
đầy đủ quyền tự do, dân chủ và nhân phẩm. Trong tám mươi năm qua, Việt Nam đã
trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Có lúc nhà nước phải ưu tiên cho việc giữ vững
chủ quyền trong bối cảnh chiến tranh và bao vây cấm vận. Có lúc chính quyền tập
trung cho phát triển kinh tế sau thời kì Đổi mới. Trên hành trình ấy, tự do cá
nhân và các quyền công dân không phải lúc nào cũng được tôn trọng. Điều này dẫn
tới bất đồng nặng nề trong xã hội. Nhiều người nhìn nhận rằng nền độc lập chỉ mới
là vỏ bọc, rằng cái lõi của tự do vẫn còn thiếu. Ngược lại, một số người lại
xem nền độc lập như thành quả tuyệt đối, không thể đặt dấu hỏi chất vấn.
Tôi
nghĩ cả hai thái độ ấy, nếu được diễn giải cực đoan, đều ít nhiều thiếu công bằng.
Độc lập không thể bị coi là hư danh. Không có độc lập, sẽ không có cơ sở để bàn
đến dân chủ hay nhân quyền. Một quốc gia còn lệ thuộc thì công dân của quốc gia
đó khó có thể tự do thật sự. Nhưng đúng, độc lập là chưa đủ. Độc lập phải mở đường
cho tự do. Không thể lấy độc lập như một lá chắn để biện minh cho những hạn chế
kéo dài vô thời hạn trong đời sống chính trị và xã hội.
Tôi
muốn nhắc đến khung lí thuyết về chủ nghĩa cộng hòa, đặc biệt qua biện giải
trong bối cảnh chính trị hiện đại của Philip Pettit, triết gia người Ireland,
sinh năm 1945, hiện giảng dạy khoa học chính trị tại Đại học Princeton (Mĩ) và
Đại học Quốc gia Úc. Theo Pettit, tự do không thể hiểu giản lược là không có sự
can thiệp bên ngoài mà chính là trạng thái không bị lệ thuộc vào bất kì thứ quyền
lực tùy tiện nào. Một cá nhân có thể không bị can thiệp trực tiếp, nhưng nếu vẫn
sống trong tình thế dễ bị chi phối, bị kiểm soát nhất cử nhất động bởi quyền lực
tùy tiện tiềm ẩn, thì tự do ấy chỉ là ảo tưởng. Tương tự, một dân tộc có thể
thoát khỏi sự thống trị trực tiếp của ngoại bang nhưng nếu độc lập ấy chỉ là sự
thay thế hình thức lệ thuộc này bằng một dạng lệ thuộc khác, thì nền độc lập ấy
chưa đạt tới ý nghĩa trọn vẹn.
Đặt
trong trường hợp Việt Nam, có thể thấy rằng độc lập năm 1945 trước hết là một
hành động giải phóng dân tộc khỏi sự lệ thuộc trực tiếp của thực dân Pháp và sự
kiểm soát gián tiếp của Nhật Bản trong bối cảnh Thế chiến thứ hai. Bản Tuyên
ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình đã khẳng định rằng dân tộc Việt Nam có
quyền làm chủ vận mệnh chính trị của mình, chấm dứt tình trạng phụ thuộc kéo
dài gần một thế kỉ. Từ góc độ cộng hòa, đây là bước đầu tiên để phá bỏ tình trạng
lệ thuộc bên ngoài, đặt quốc gia vào vị thế chủ quyền. Nhưng như lí thuyết chỉ
ra, thoát khỏi lệ thuộc ngoại bang không đồng nghĩa với sự hiện diện đầy đủ của
tự do cho công dân trong quốc gia.
Trong
giai đoạn từ 1945 đến 1975, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tồn tại trong một
bối cảnh đặc biệt: nền độc lập vừa giành lại phải lập tức đối diện với những thử
thách toàn diện của chiến tranh. Từ cuối năm 1946, xung đột vũ trang với thực
dân Pháp bùng nổ và kéo dài gần một thập kỉ, khép lại bằng Hiệp định Genève năm
1954. Theo thỏa thuận này, lãnh thổ Việt Nam tạm thời chia thành hai vùng tập kết
quân sự, tạo điều kiện cho sự hình thành hai chính thể đối lập về chính trị và
ý thức hệ. Kể từ đó, chiến tranh tiếp tục leo thang với sự can dự sâu rộng của
các cường quốc, biến Việt Nam thành một trong những điểm nóng của Chiến tranh Lạnh.
Cuộc chiến kéo dài từ năm 1955 đến 1975 không chỉ mang đặc điểm của một cuộc nội
chiến mà còn phản ánh sự đối đầu toàn cầu giữa hai hệ thống chính trị - kinh tế,
hai ý thức hệ. Trong bối cảnh ấy, ưu tiên nổi bật của chính quyền miền Bắc và
các lực lượng cách mạng ở miền Nam là bảo vệ chủ quyền và tìm kiếm thống nhất
lãnh thổ. Hệ quả là đời sống xã hội vận hành trong trạng thái huy động cho chiến
tranh tổng lực, nơi quyền tự do cá nhân thường bị đặt dưới ưu tiên của chủ quyền
tập thể và an ninh quốc gia. Mặc dù độc lập dân tộc được khẳng định và duy trì,
mức độ tự do công dân chưa thể phát triển tương xứng, bởi xã hội vận hành trong
điều kiện kiểm soát chính trị - quân sự cao độ.
Sau
tháng 4 năm 1975, chiến tranh kết thúc, lãnh thổ Việt Nam thống nhất trên thực
tế, và đến tháng 7 năm 1976, nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chính
thức thành lập, hợp thức hóa sự thống nhất ấy về mặt pháp lí. Tuy nhiên, giai
đoạn hậu chiến đặt ra những thách thức nghiêm trọng: cơ sở hạ tầng kiệt quệ,
kinh tế khủng hoảng, vết thương xã hội sâu nặng cùng tình trạng cô lập trong
quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh này, ưu tiên tiếp tục nghiêng về củng cố chủ
quyền và ổn định chế độ, khiến không gian dành cho tự do công dân còn rất nhiều
giới hạn. Bước ngoặt chỉ xuất hiện từ năm 1986, khi công cuộc Đổi mới được khởi
xướng. Quá trình chuyển đổi sang “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” gắn liền với hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã tạo ra những điều kiện
mới cho việc cải thiện quyền công dân và xây dựng pháp quyền. Các yếu tố thị
trường, thương mại và chuẩn mực pháp lí toàn cầu bắt đầu gây sức ép mở rộng
không gian tự do xã hội và cá nhân. Tiến trình này tuy nhất quán về xu thế
nhưng diễn ra không đồng đều và thường xuyên đi kèm với những tranh luận nội tại
gay gắt.
Tuy
vậy, từ góc độ lí thuyết cộng hòa, những chuyển biến ấy cần được soi chiếu kĩ
lưỡng. Theo cách hiểu “tự do như không bị lệ thuộc” (freedom as non-domination)
của Philip Pettit, một cá nhân không thực sự tự do chỉ vì không bị can thiệp trực
tiếp mà phải là khi họ không sống trong trạng thái dễ bị quyền lực tùy tiện chi
phối. Áp dụng vào bối cảnh Việt Nam, có thể thấy độc lập quốc gia sau 1945 đã
loại bỏ tình trạng lệ thuộc ngoại bang, nhưng chưa tự động đảm bảo rằng công
dân thoát khỏi nguy cơ lệ thuộc nội tại. Trong thời kì chiến tranh cũng như
trong giai đoạn hậu chiến, mức độ kiểm soát của thiết chế quyền lực chính trị
khiến công dân vẫn tồn tại trong trạng thái dễ bị can thiệp, ngay cả khi sự can
thiệp ấy được biện minh bằng lí do bảo vệ độc lập hoặc ổn định. Sự mở cửa từ
năm 1986 đến nay có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo thêm không gian tự do,
song từ khung lí thuyết cộng hòa, có thể thấy vấn đề trọng tâm vẫn là thiết lập
cơ chế để công dân có khả năng kiểm soát quyền lực theo cách hợp pháp và phi tùy
tiện. Độc lập quốc gia, xét đến cùng, mới chỉ là điều kiện cần để chấm dứt lệ
thuộc ngoại bang; nhưng điều kiện đủ để nền độc lập ấy trở thành nền tảng bền vững
chính là mở rộng không gian phi lệ thuộc cho công dân, tức là bảo đảm họ không
bị chi phối bởi bất kì hình thức áp bức nào, dù đến từ bên ngoài hay từ chính nội
bộ quốc gia. Chính ở điểm này, lí thuyết cộng hòa đã cho thấy mối liên hệ thiết
yếu giữa độc lập và tự do: độc lập tạo tiền đề chấm dứt lệ thuộc ngoại bang,
còn tự do là bước hoàn tất, loại bỏ nguy cơ lệ thuộc nội tại, nhờ vậy mới trao
cho nền độc lập ý nghĩa thực chất thay vì chỉ dừng lại ở biểu tượng chính trị.
Nếu
nhìn rộng ra, có thể thấy trường hợp Việt Nam không phải là ngoại lệ. Algeria
sau năm 1962 giành độc lập từ Pháp cũng bước vào một tiến trình đầy nghịch lí.
Về hình thức, quốc gia này đã chấm dứt sự lệ thuộc trực tiếp vào thực dân,
nhưng hệ thống chính trị lại rơi vào tình trạng độc đảng toàn trị, nơi quyền lực
tập trung và công dân không có khả năng kiểm soát hữu hiệu đối với nhà nước. Từ
góc độ cộng hòa, đây là sự chuyển đổi từ lệ thuộc ngoại bang sang lệ thuộc nội
tại, khiến tự do như không bị lệ thuộc vẫn chưa trở thành hiện thực. Nhiều thập
niên bất ổn và xung đột nội chiến ở Algeria chứng minh rằng độc lập quốc gia
không tự động biến thành tự do công dân.
Ấn
Độ, trong khi đó, cũng giành độc lập từ Anh năm 1947, nhưng con đường đi lại
khác biệt. Với một hệ thống dân chủ nghị viện được duy trì liên tục, Ấn Độ đã tạo
điều kiện cho công dân tham gia vào quá trình kiểm soát quyền lực nhà nước
thông qua bầu cử và pháp quyền. Dù còn nhiều vấn đề như bất bình đẳng, xung đột
tôn giáo hay chia rẽ đẳng cấp, nhưng nguyên tắc không bị lệ thuộc của công dân
vào một quyền lực tùy tiện đã được thể chế hóa. Ở đây, có thể thấy sự gắn kết
chặt chẽ hơn giữa độc lập quốc gia và tự do cá nhân.
Đặt
Việt Nam trong sự so sánh ấy, có thể nhận ra cả điểm tương đồng và khác biệt.
Giống như Algeria, Việt Nam phải tiến hành chiến tranh giải phóng kéo dài, và
trong bối cảnh ấy, ưu tiên tuyệt đối là bảo vệ độc lập và thống nhất, trong khi
tự do công dân chưa trở thành trọng tâm. Nhưng khác với Algeria, Việt Nam sau
năm 1986 đã khởi xướng Đổi mới, mở cửa kinh tế và hội nhập quốc tế, từ đó xuất
hiện những không gian mới cho tự do cá nhân, dù còn hạn chế. So với Ấn Độ, Việt
Nam chưa thể xây dựng đầy đủ một cơ chế kiểm soát quyền lực theo mô hình dân chủ
nghị viện, nhưng tiến trình hội nhập đã buộc nhà nước này ngày càng phải quan
tâm hơn đến chuẩn mực quốc tế về quyền công dân và pháp quyền.
Từ
góc nhìn của lí thuyết cộng hòa, ba trường hợp này cho thấy độc lập quốc gia chỉ
có ý nghĩa trọn vẹn khi đi kèm cơ chế bảo đảm cho công dân không rơi vào tình
trạng lệ thuộc, dù là từ ngoại bang hay từ quyền lực nội tại. Việt Nam, trong
tám mươi năm qua, đã thành công trong việc khẳng định độc lập quốc gia và giữ vững
chủ quyền, nhưng câu hỏi còn lại vẫn là làm thế nào để chuyển hóa nền độc lập ấy
thành một trạng thái tự do cộng hòa, nơi công dân không còn sống trong sự lệ
thuộc tiềm ẩn vào quyền lực tùy tiện.
Chính
vì vậy, trân trọng độc lập không có nghĩa là ngừng đặt ra câu hỏi cho hiện tại.
Trân trọng độc lập là thừa nhận công lao của các thế hệ đã hi sinh, là thừa nhận
giá trị nền tảng của quyền tự quyết dân tộc. Nhưng song song với sự trân trọng ấy
là trách nhiệm phải xây dựng một xã hội công bằng hơn, dân chủ hơn, tự do hơn.
Độc lập là điểm khởi đầu, không phải điểm kết thúc.
Lịch
sử thế giới cho thấy nhiều quốc gia giành được độc lập nhưng sau đó rơi vào khủng
hoảng kéo dài. Một số nước châu Phi thoát khỏi thực dân giữa thế kỉ hai mươi
nhưng đến nay vẫn ngập chìm trong xung đột, nghèo đói và bất ổn chính trị. Điều
đó cho thấy rằng giành được độc lập là một chuyện, còn sử dụng nó thế nào lại
là chuyện khác. Việt Nam đã không rơi vào vòng xoáy sụp đổ ấy, một phần nhờ sự
kiên cường của dân tộc, một phần nhờ biết thích nghi với những thay đổi quốc tế,
đặc biệt từ khi đảng Cộng sản tiến hành công cuộc Đổi mới năm 1986. Nhưng những
thành công ấy cũng không nên làm chúng ta thỏa mãn. Bởi vì độc lập chỉ thực sự
có ý nghĩa trọn vẹn khi nó bảo đảm cho đời sống con người được tôn trọng và
phát triển toàn diện.
Tôi
muốn nhấn mạnh rằng thái độ công bằng mới là thái độ xứng đáng trước độc lập.
Công bằng có nghĩa là không tự ru ngủ trong cảm xúc tự hào một cách ồn ào quá
khích, nhưng cũng không thể chấp nhận cay nghiệt đến mức phủ nhận thành quả.
Công bằng là nhìn thẳng vào lịch sử, thấy cả giá trị lẫn giới hạn, thấy cả
thành công lẫn thất bại. Công bằng là biết rằng độc lập đã trao cho chúng ta cơ
hội, nhưng chính chúng ta quyết định cách sử dụng cơ hội ấy.
Tám
mươi năm không quá dài nhưng cũng đủ để thế hệ hôm nay cảm nhận rõ rằng nền độc
lập không phải là món quà được trao tặng một lần rồi vĩnh viễn không mất đi.
Ngược lại, nó giống như một tài sản phải luôn gìn giữ, bảo vệ và phát huy.
Trong bối cảnh hiện tại, khi trật tự thế giới biến động, khi cạnh tranh chiến
lược giữa các cường quốc ngày càng gay gắt, nền độc lập của Việt Nam vẫn đối diện
với những thử thách mới. Đó là thử thách của việc giữ gìn chủ quyền trên Biển
Đông, thử thách của việc vừa hội nhập quốc tế vừa bảo toàn bản sắc, thử thách của
việc vừa mở cửa kinh tế vừa bảo đảm công bằng xã hội.
Nhìn
từ tám mươi năm lịch sử, giá trị nền tảng chính là thái độ trân trọng nhưng tỉnh
táo. Trân trọng để không quên máu xương và công lao của những người đi trước. Tỉnh
táo để thấy rằng còn rất nhiều điều chưa làm được, còn nhiều giới hạn cần vượt
qua. Trân trọng để hiểu rằng độc lập là nền tảng quý giá nhất mà một dân tộc có
thể có. Tỉnh táo để thấy rằng giá trị của nền tảng ấy sẽ phai nhạt nếu không được
xây dựng tiếp bằng tự do, dân chủ và nhân phẩm.
Viết
đến đây, tôi nghĩ đến một đời người. Tám mươi năm là trọn vẹn một kiếp nhân
sinh. Một đời người có thể chứng kiến trọn vẹn giai đoạn từ ngày đất nước giành
độc lập đến hôm nay. Thế hệ ấy đã sống với đủ vui buồn, với cả hi vọng lẫn thất
vọng. Nhưng nếu có điều gì chắc chắn, thì đó là không một ai trong thế hệ ấy muốn
quay lại thời kì nô lệ. Sự thật ấy đủ để khẳng định rằng nền độc lập, dẫu chưa
hoàn hảo, vẫn là một giá trị vô song.
Cho
nên, thay vì thái độ cực đoan, tôi chọn thái độ biết ơn và trách nhiệm. Biết ơn
quá khứ đã trao cho chúng ta quyền tự quyết. Trách nhiệm để biến quyền tự quyết
ấy thành nền tảng cho một tương lai tự do hơn và nhân bản hơn. Độc lập không phải
điểm kết thúc của lịch sử mà là cánh cửa mở ra cho một hành trình dài. Tám mươi
năm chỉ mới là khởi đầu.
••••••
Eighty
years have passed since the day Vietnam officially proclaimed the birth of a
sovereign nation. Over the course of more than three quarters of a century, the
people have gone through the most turbulent turning points of modern history,
from the afternoon of September 2, 1945, when the Declaration of Independence
echoed across Ba Dinh Square, to the decades of war, division, reunification,
reconstruction, and integration. Eighty years may not be a long span in the
depth of history, but it’s sufficient for a nation to reflect, to question
itself, and to assess both the achievements attained and the limitations that
remain.
I
write these lines as a Vietnamese citizen, though I live abroad, with the
desire to remain at once honest to my own sentiments and anchored in
historically verified facts. My intention is to keep this reflection free from
the distortions of political extremity or emotional bias. For I believe that if
there is any meaningful way to honor independence, it lies in a posture of
sobriety and fairness, neither denying nor sanctifying what has been.
What
did Vietnam’s independence in 1945 signify? Above all, it marked the
affirmation of political self-determination by a people who had endured more
than a millennium of Chinese influence, including long periods of direct
imperial rule. During those centuries of subjugation, the Vietnamese never
ceased resisting assimilation. The uprisings of the Trung Sisters, of Lady
Trieu, of Ly Bi, and of Mai Thuc Loan all testified to a tenacious yearning for
autonomy. Although victory on the Bach Dang River in 938 under Ngo Quyen
established an independent polity in name, the threat from the northern
neighbor never truly receded. Independence in the centuries that followed
remained defensive in essence, fragile, perpetually vigilant, tasked both with
guarding the borders and with safeguarding cultural identity.
By
the latter half of the nineteenth century, another wave of foreign domination
arrived from the West. French colonial rule imposed direct control, reducing
Vietnam to a colony and semi-colony for nearly a century. During this period,
Vietnam lost the status of an independent nation in the full sense of
international law. Political power lay in the hands of the protectorate
administration, the economy was exploited, and society was fractured. Among the
educated elite, efforts at reform took shape. The Dong Du movement of Phan Boi
Chau, the Duy Tan movement of Phan Chau Trinh, and armed uprisings led by
figures such as Phan Dinh Phung and Hoang Hoa Tham all testified to the spirit
of seeking national salvation. Yet none of these paths brought about complete
success. Their failures revealed the harsh realities of pursuing independence
in a world bound by colonialism and by an international order deeply marked by
inequality.
For
that reason, the August Revolution of 1945 and the Declaration of Independence
proclaimed in Ba Dinh Square on September 2 carried extraordinary historical
weight. They signaled Vietnam’s reentry onto the global political map as a
sovereign state. Yet from the outset, this independence faced immense
challenges. The political situation at that moment could truly be described as
“a thousand pounds suspended by a single thread”. In the North, Chinese
Nationalist troops marched in to disarm the Japanese. In the South, British
forces arrived, opening the way for the French to return. Domestic parties and
factions were deeply divided. The Democratic Republic of Vietnam, in its
earliest days, stood in a position of extreme weakness. Securing and preserving
independence under those conditions was far from inevitable.
Many
observers have argued that the independence of 1945 was largely the result of
historical contingency, that Japan’s defeat in World War II created an
exceptional opening. This judgment isn’t incorrect, but it must be added that
historical opportunity only becomes reality when a political force has the
preparation and capacity to seize it. Without prior organization and the
mobilization of the masses, the opportunity could easily have been lost. For
that reason, whatever perspective one adopts, the reclamation of independence
at that moment deserves to be recognized as a decisive turning point.
The
second value of independence lies in the possibility it opened for national
unification and development. Modern Vietnamese history had been a succession of
ruptures under foreign invasion and partition. After the Geneva Accords of
1954, the country was split into two zones with opposing political regimes.
This division propelled the nation into a war that was simultaneously
anti-colonial, ideological, and civil, lasting twenty-one years. The war ended
in April 1975 with the reunification of the territory. Although the road to
unity came at a staggering cost, with millions of lives lost and innumerable
wounds inflicted, the final result was a nation territorially whole from North
to South. This was a necessary condition for development. A divided country
can’t easily build internal strength, nor can it achieve the stability required
to engage the wider world.
Yet
any discussion of independence can’t overlook a vital question: does national
independence guarantee the freedom of each citizen. Here lies a source of
unease and even fierce debate. Independence ensures that a nation isn’t subject
to foreign domination, but it doesn’t necessarily ensure that the people of
that nation enjoy full rights to freedom, democracy, and dignity. Over the past
eighty years, Vietnam has passed through many phases. At times, the state
prioritized defending sovereignty in the context of war and embargo. At other
times, it focused on economic development during the period of Doi Moi. Along
this path, individual liberties and civil rights were not always respected.
This has led to profound social disagreement. Some regard independence as
merely a façade, insisting that the core of freedom remains absent. Others hold
independence to be an absolute achievement, beyond all questioning.
I
believe that both of these positions, when taken to extremes, fall short of
fairness. Independence can’t be dismissed as an empty name. Without
independence, there would be no foundation for democracy or human rights. A
nation still subject to external control can’t truly grant freedom to its
citizens. Yet it’s also true that independence isn’t sufficient in itself.
Independence must pave the way toward freedom. It can’t serve as a shield to
justify indefinite limitations in political and social life.
I
wish to bring into this reflection the theoretical framework of republicanism,
particularly as articulated in the modern political philosophy of Philip
Pettit, the Irish thinker born in 1945 who teaches political science at
Princeton University and the Australian National University. According to
Pettit, freedom can’t be reduced to the mere absence of external interference.
Rather, it’s the condition of not being subject to arbitrary power of any kind.
An individual may experience no direct intervention, yet if that individual
lives under circumstances in which every action remains vulnerable to
domination, surveillance, or arbitrary control, then that freedom is only an
illusion. By the same reasoning, a nation may escape direct foreign domination,
but if its independence merely replaces one form of subjection with another,
then that independence remains incomplete.
In
the case of Vietnam, independence in 1945 was first and foremost the liberation
of the nation from direct colonial subjugation by France and from indirect
Japanese control during the Second World War. The Declaration of Independence
at Ba Dinh Square affirmed that the Vietnamese people had the right to shape
their own political destiny, ending nearly a century of dependency. From a
republican perspective, this was the crucial first step toward dismantling
external domination and placing the nation in a position of sovereignty. Yet,
as theory makes clear, the removal of foreign domination doesn’t by itself
ensure the full presence of liberty for citizens within the state.
Between
1945 and 1975, the Democratic Republic of Vietnam existed in extraordinary
circumstances. The newly won independence immediately confronted the totalizing
challenge of war. In late 1946, armed conflict with the French erupted and
persisted for nearly a decade, ending with the Geneva Accords of 1954. That
agreement temporarily divided the country into two zones of military
regroupment, opening the path to the formation of two opposing regimes. From
that moment, Vietnam became a central arena of the Cold War, with great powers
deeply involved. The ensuing conflict, stretching from 1955 to 1975, wasn’t
only a civil war but also a theater for the confrontation between two global
systems of politics and ideology. Within this context, the overriding priority
of the government in the North and the revolutionary forces in the South was
the defense of sovereignty and the pursuit of territorial unification. The
result was a society mobilized for total war, where individual freedoms were
consistently subordinated to collective sovereignty and national security.
Although national independence was asserted and preserved, the scope of
personal liberty couldn’t expand proportionately, for society operated under
conditions of pervasive political and military control.
After
April 1975, the war came to an end, the Vietnamese territory was unified in
fact, and in July 1976 the Socialist Republic of Vietnam was formally
established, giving legal expression to that unity. Yet the postwar years posed
daunting challenges: devastated infrastructure, a collapsing economy, deep
social wounds, and diplomatic isolation. In such circumstances, priorities
tilted toward consolidating sovereignty and stabilizing the regime, leaving
little space for civic freedom. A turning point arrived only in 1986, with the
initiation of Doi Moi. The shift to a “socialist-oriented market economy”,
accompanied by deepening international integration, generated new conditions
for improving civil rights and for building a legal framework. Market dynamics,
global commerce, and international legal norms exerted pressure to widen the
space for social and individual freedom. This process has been consistent in
direction but uneven in pace, and it has been accompanied by intense domestic
debate.
Still,
from the standpoint of republican theory, these transformations must be
examined with care. In Pettit’s conception of “freedom as non-domination”, an
individual isn’t truly free simply because he or she is spared direct
interference. True freedom arises only when that individual isn’t vulnerable to
arbitrary power. Applied to Vietnam, this means that national independence
after 1945 removed external domination but didn’t automatically ensure that
citizens escaped internal forms of dependency. During both wartime and the
postwar period, the degree of political control imposed by state institutions
left citizens in a condition of vulnerability, even when such control was
justified in the name of safeguarding sovereignty or stability. The opening to
the world since 1986 has been significant in broadening the space for freedom.
Yet from a republican lens, the central issue remains the creation of
mechanisms that allow citizens to subject power to lawful, non-arbitrary
control. National independence is at best a necessary condition for ending
foreign subjugation. The sufficient condition, without which independence can’t
endure as more than a symbolic political achievement, is the expansion of
non-domination for citizens, the guarantee that they aren’t subject to
oppression from any source, whether external or internal. At this point,
republican theory illuminates the essential connection between independence and
liberty. Independence ends foreign rule, while liberty completes that
independence by removing internal domination, thus granting independence its
substantive rather than merely symbolic meaning.
Viewed
more broadly, the Vietnamese experience isn’t unique. Algeria, after gaining
independence from France in 1962, entered a paradoxical trajectory. In form,
the nation had freed itself from direct colonial subjugation. In practice,
however, its political system slipped into single-party authoritarianism, where
power was concentrated and citizens lacked meaningful control over the state.
From a republican perspective, this was a shift from foreign domination to
internal domination, a condition in which freedom as non-domination failed to
materialize. Decades of instability and civil conflict in Algeria demonstrated
that national independence doesn’t automatically translate into civic liberty.
India,
by contrast, also won independence from Britain in 1947, but its path diverged.
Through the continuous maintenance of a parliamentary democracy, India enabled
its citizens to exercise control over state power through elections and the
rule of law. Although inequality, religious strife, and caste divisions
persisted, the principle of non-domination, the assurance that citizens
wouldn’t be subject to arbitrary power, was institutionalized. Here the bond
between national independence and individual liberty was more firmly forged.
Placed
in this comparative frame, Vietnam shows both parallels and differences. Like
Algeria, Vietnam fought a long war of liberation, during which the overriding
priority was sovereignty and unity, while civic freedom didn’t occupy the
center of concern. Yet unlike Algeria, Vietnam after 1986 initiated Doi Moi,
opening its economy and integrating internationally, thereby creating new,
though still limited, spaces for individual freedom. Compared with India,
Vietnam hasn’t yet established a parliamentary mechanism of power control, but
the demands of integration have compelled its state to pay increasing attention
to international norms of citizenship and the rule of law.
From
the perspective of republican theory, these three cases reveal a common lesson.
National independence attains its full meaning only when it’s accompanied by
mechanisms that protect citizens from subjection, whether to foreign powers or
to domestic authority. Vietnam, over the past eighty years, has succeeded in
asserting its independence and safeguarding sovereignty, yet the remaining
question is how to transform that independence into a republican freedom in
which citizens no longer live in latent subordination to arbitrary power.
To
honor independence, therefore, isn’t to cease questioning the present. To honor
independence is to acknowledge the sacrifices of generations and the
foundational value of national self-determination. Yet alongside reverence must
come responsibility: the responsibility to build a society that is more just,
more democratic, more free. Independence is a beginning, not an end.
World
history provides sobering examples. Many nations that gained independence fell
into prolonged crisis. Several African countries, freed from colonial rule in
the mid-twentieth century, remain mired in conflict, poverty, and political
instability. This teaches us that winning independence is one thing, but making
use of it is another. Vietnam has avoided such collapse, in part due to the
resilience of its people, in part due to the capacity to adapt to global
changes, especially since the Communist Party launched Doi Moi in 1986. Yet
these successes shouldn’t lead to complacency. For independence only acquires
full meaning when it guarantees that human life is respected and that each
person can flourish.
I
want to stress that fairness is the attitude most worthy of independence.
Fairness means refusing both the noisy intoxication of uncritical pride and the
bitterness of outright negation. Fairness means looking directly at history,
seeing both values and limitations, both victories and defeats. Fairness is to
recognize that independence has given us opportunity, but that we alone decide
how to use it.
Eighty
years isn’t long in the scale of history, but it’s long enough for the present
generation to realize that independence isn’t a gift conferred once and secured
forever. On the contrary, it’s like an inheritance that must be continually
preserved, defended, and renewed. In the present moment, as the international
order shifts and strategic rivalry among great powers intensifies, Vietnam’s
independence confronts fresh challenges. These include the defense of
sovereignty in the South China Sea, the balance between international
integration and cultural preservation, and the task of opening the economy
while ensuring social justice.
Looking
across these eighty years, the essential value is an attitude that combines
reverence with lucidity. Reverence ensures that we don’t forget the blood and
labor of those who came before. Lucidity reminds us of the unfinished tasks and
the obstacles that remain. Reverence keeps us mindful that independence is the
most precious foundation a people can possess. Lucidity warns that this
foundation will erode if it’s not reinforced by freedom, democracy, and human
dignity.
At
this point I think of a human life. Eighty years is a lifetime. A single
generation could witness the entire journey from the day independence was
declared to the present. That generation lived through both joy and sorrow,
through hope and disillusionment. Yet if there is one certainty, it’s that no
one among them would choose to return to the time of subjugation. That truth
alone suffices to affirm that independence, though imperfect, remains an
incomparable value.
For
this reason, instead of extremes, I choose gratitude and responsibility.
Gratitude for the past that bequeathed to us the right of self-determination.
Responsibility to transform that right into the foundation of a freer and more
humane future. Independence isn’t the end of history. It’s the doorway to a
long journey. Eighty years are only the beginning.
-
Tino -
——
𝘊𝘢𝘮𝘦𝘳𝘢𝘱𝘳𝘦𝘴𝘴/𝘎𝘢𝘮𝘮𝘢 𝘱𝘩𝘰𝘵𝘰𝘨𝘳𝘢𝘱𝘩, 𝘤𝘰𝘱𝘺𝘳𝘪𝘨𝘩𝘵 𝘓’𝘏𝘶𝘮𝘢𝘯𝘪𝘵𝘦́. 𝘉𝘢 𝘋𝘪𝘯𝘩 𝘚𝘲𝘶𝘢𝘳𝘦, 𝘏𝘢𝘯𝘰𝘪, 𝘚𝘦𝘱𝘵𝘦𝘮𝘣𝘦𝘳 2, 1945. 𝘉𝘦𝘧𝘰𝘳𝘦 𝘢
𝘨𝘢𝘵𝘩𝘦𝘳𝘪𝘯𝘨 𝘰𝘧 𝘮𝘰𝘳𝘦 𝘵𝘩𝘢𝘯 𝘩𝘢𝘭𝘧 𝘢
𝘮𝘪𝘭𝘭𝘪𝘰𝘯 𝘱𝘦𝘰𝘱𝘭𝘦, 𝘸𝘪𝘵𝘩 𝘮𝘦𝘮𝘣𝘦𝘳𝘴 𝘰𝘧 𝘵𝘩𝘦 𝘗𝘳𝘰𝘷𝘪𝘴𝘪𝘰𝘯𝘢𝘭 𝘎𝘰𝘷𝘦𝘳𝘯𝘮𝘦𝘯𝘵 𝘢𝘵 𝘩𝘪𝘴 𝘴𝘪𝘥𝘦, 𝘏𝘰 𝘊𝘩𝘪 𝘔𝘪𝘯𝘩 𝘧𝘰𝘳𝘮𝘢𝘭𝘭𝘺 𝘱𝘳𝘰𝘤𝘭𝘢𝘪𝘮𝘦𝘥 𝘵𝘩𝘦 𝘦𝘴𝘵𝘢𝘣𝘭𝘪𝘴𝘩𝘮𝘦𝘯𝘵 𝘰𝘧 𝘵𝘩𝘦 𝘋𝘦𝘮𝘰𝘤𝘳𝘢𝘵𝘪𝘤 𝘙𝘦𝘱𝘶𝘣𝘭𝘪𝘤 𝘰𝘧 𝘝𝘪𝘦𝘵𝘯𝘢𝘮.
HÌNH
: https://www.facebook.com/photo?fbid=24605545049084890&set=a.187615724637829
.
No comments:
Post a Comment