Friday, July 5, 2024

TẠI SAO MỸ TRỞ NÊN BẦN TIỆN (David Brooks / The Atlantic)

 



Tại sao Mỹ trở nên bần tiện
David Brooks

Trần Giao Thuỷ dịch

 POSTED ON JULY 4, 2024 

 https://dcvonline.net/2024/07/04/tai-sao-my-tro-nen-ban-tien/

 

Trong một nền văn hóa không có giáo dục đạo đức, những thế hệ đang lớn lên trong một thế giới tự quy chiếu và không có đạo đức.

 

Những người lãnh đạo theo phong cách độc tài như Donald Trump, Vladimir Putin và Tập Cận Bình là hiện thân của một kiểu chủ nghĩa hiện thực phi luân lý.

 

https://cdn.theatlantic.com/thumbor/Lo1J9fmB2McD0YR1ij2GqKxpHNc=/0x157:3000x1845/1536x864/media/img/2023/07/24/0923_WEL_Brooks_MoralCollapseOpener/original.jpg

Những mảnh gương xếp thành hình nước Mỹ, phản chiếu một cái cây và bầu trời. Minh họa của Ricardo Tomás

 

Trong hơn tám năm qua, tôi bị hai câu hỏi ám ảnh. Đầu tiên là: Tại sao người Mỹ lại trở nên u sầu như vậy? Ai cũng biết về tỷ lệ trầm cảm gia tăng đã công bố, cũng như số người thiệt mạng vì tuyệt vọng do ma túy, rượu và tự tử ngày càng tăng. Nhưng những số liệu thống kê khác cũng đáng lo ngại tương tự. Tỷ lệ người nói rằng họ không có bạn thân đã tăng gấp 4 lần kể từ năm 1990. Tỷ lệ người Mỹ từ 25 đến 54 tuổi chưa kết hôn hoặc sống chung với bạn tình đã tăng lên 38% vào năm 2019, từ 29% vào năm 2019. 1990. Tỷ lệ cao kỷ lục là 25% người Mỹ ở độ tuổi 40 chưa bao giờ kết hôn. Hơn một nửa số người Mỹ nói rằng không ai hiểu về họ. Tỷ lệ học sinh trung học cho biết “cảm giác buồn bã hoặc vô vọng dai dẳng” đã tăng từ 26% năm 2009 lên 44% vào năm 2021.

Câu hỏi liên quan thứ hai của tôi là: Tại sao người Mỹ lại trở nên hèn hạ đến vậy? Gần đây tôi đã nói chuyện với một chủ nhà hàng, người này nói rằng ông ta phải đuổi một khách hàng ra khỏi nhà hàng tiệm của mình vì hành vi thô lỗ hoặc tàn nhẫn mỗi tuần một lần—điều chưa bao giờ xẩy ra trước đây. Một y tá trưởng tại một bệnh viện nói với tôi rằng nhiều nhân viên của bà đã bỏ nghề vì bệnh nhân trở nên quá hung bạo. Ở mức cực đoan nhất, tội ác căm thù đã tăng vào năm 2020 lên mức cao nhất trong 12 năm. Tỷ lệ giết người đang gia tăng, ít nhất là cho đến gần đây. Việc bán súng cũng vậy. Niềm tin xã hội đang sụt giảm. Năm 2000, 2/3 số gia đình ở Mỹ làm từ thiện; vào năm 2018, chưa đến một nửa đã làm như vậy. Những từ định nghĩa thời đại chúng ta đầy mùi đe dọa: âm mưu, phân cực, xả súng hàng loạt, chấn thương, không gian an toàn.

Chúng ta đang vướng vào một loại khủng hoảng về cảm xúc, quan hệ và tinh thần nào đó, và nó củng cố cho sự rối loạn ở chính trị cũng như cuộc khủng hoảng chung của nền dân chủ của chúng ta. Chuyện gì đang xẩy ra vậy?

Trong vài năm qua, nhiều người trong giới quan sát xã hội đã đưa ra những câu chuyện khác nhau để giải thích sự gia tăng của hận thù, lo lắng và tuyệt vọng.

Câu chuyện về kỹ thuật: Mạng xã hội đang khiến tất cả chúng ta phát điên.

Về mặt xã hội: Chúng ta đã ngừng tham gia những tổ chức cộng đồng và ngày càng bị cô lập.

Về nhân khẩu: Nước Mỹ, một quốc gia từ lâu do người da trắng thống trị, đang trở thành một quốc gia đa dạng hơn nhiều, một sự thay đổi khiến hàng triệu người Mỹ da trắng hoảng sợ.

Về kinh tế: Mức độ bất bình đẳng và bất an kinh tế cao đã khiến người dân sợ hãi, xa lánh và bi quan.

Ở một mức độ nào đó, tôi đồng ý với tất cả những lý do này, nhưng tôi không nghĩ nguyên nhân nào trong số đó là sâu sắc nhất. Chắc chắn, mạng xã hội có những ảnh hưởng xấu, nhưng nó có mặt ở khắp mọi nơi trên toàn cầu – và cuộc khủng hoảng sức khỏe tâm thần thì không. Ngoài ra, sự gia tăng của sự tuyệt vọng và hận thù đã nhấn chìm rất nhiều người không dùng mạng xã hội. Bất bình đẳng kinh tế là có thật, nhưng nó không giải thích đầy đủ mức độ suy sụp về mặt xã hội và tình cảm này. những nhà xã hội học đã đúng khi cho rằng chúng ta bị cô lập hơn, nhưng tại sao? Những giá trị nào khiến chúng ta chọn lối sống khiến chúng ta cô đơn và đau khổ?

Tôi tin rằng câu chuyện quan trọng nhất về lý do tại sao người Mỹ trở nên buồn bã, xa lánh và thô lỗ cũng là câu chuyện đơn giản nhất: Chúng ta đang sống trong một xã hội mà mọi người không còn được giáo dục về cách đối xử tử tế và quan tâm đến người khác. Xã hội của chúng ta đã trở thành một xã hội trong đó mọi người cảm thấy được phép để cho sự ích kỷ của mình được tự do buông thả. Câu chuyện tôi sắp kể là về đạo đức. Trong một xã hội lành mạnh, một mạng lưới những thể chế—gia đình, trường học, nhóm tôn giáo, tổ chức cộng đồng và nơi làm việc—giúp hình thành con người thành những công dân tử tế và có trách nhiệm, kiểu người luôn sẵn sàng vì nhau. Chúng ta đang sống trong một xã hội rất tệ trong việc giáo dục đạo đức.

Sự hình thành đạo đức, như tôi sẽ sử dụng thuật ngữ nghe có vẻ ngột ngạt ở đây, gồm có ba điều. Thứ nhất, giúp mọi người học cách kiềm chế tính ích kỷ của mình. Làm thế nào để chúng ta kiểm soát được tính ích kỷ do tiến hóa ban tặng của mình? Thứ hai, dậy những khả năng xã hội và đạo đức căn bản. Làm thế nào để bạn chào đón một người hàng xóm vào cộng đồng của bạn? Làm thế nào để bạn không đồng ý với ai đó một cách xây dựng? Và thứ ba, giúp mọi người tìm thấy mục đích sống. những thể chế hình thành về mặt đạo đức nắm giữ một loạt những lý tưởng. Chúng cung cấp những con đường thực tế để hướng tới một sự hiện hữu có ý nghĩa: Đây là cách bạn có thể cống hiến cuộc đời mình để phục vụ người nghèo, bảo vệ tổ quốc hoặc yêu thương làng xóm.

Trong phần lớn lịch sử, nước Mỹ tràn ngập những thể chế giáo dục về mặt đạo đức. Những người lập quốc có cái nhìn thấp về bản chất con người và đã viết Hiến pháp để giảm thiểu nó (ngay cả khi xác nhận quan điểm thấp kém đó về bản chất con người bằng cách tạo ra một tài liệu đầy rẫy sự phân biệt chủng tộc và phân biệt giới tính). Benjamin Franklin đã viết, “Tôi thấy những con người là một loại sinh vật có cấu tạo rất tệ, vì họ thường dễ bị khiêu khích hơn là hòa giải, có nhiều khả năng làm điều ác với nhau hơn là tu sửa, và dễ bị lừa dối hơn nhiều so với không bị lừa dối.”

Nếu những sinh vật thiếu sót, ích kỷ như vậy muốn tự trị và trở thành hàng xóm tử tế với nhau, thì họ sẽ cần được giáo dục. Trong khoảng 150 năm sau khi lập quốc, người Mỹ bị giáo dục đạo đức ám ảnh. Năm 1788, Noah Webster viết, “Đức hạnh của con người có ý nghĩa quan trọng đối với xã hội hơn là khả năng của họ
; và vì lý do này, trái tim cần được trau dồi một cách kiên trì hơn cái đầu.” Triết gia cấp tiến John Dewey đã viết vào năm 1909 rằng trường học dậy đạo đức “mọi lúc trong ngày, năm ngày một tuần”. Hollis Frissell, chủ tịch Viện Hampton, một trường học đầu tiên dành cho người Mỹ gốc Phi châu, tuyên bố: “Nhân cách là mục tiêu chính của giáo dục.” Cuối năm 1951, một ủy ban do Hội Giáo dục Quốc gia, một trong những hội giáo viên chính, đã tuyên bố rằng “mối quan tâm thường xuyên đến những giá trị đạo đức và tinh thần tiếp tục là ưu tiên hàng đầu của giáo dục.”

Những chương trình giáo dục đạo đức đã định hình bối cảnh văn hóa trong suốt chiều dài lịch sử này đến từ mọi quan điểm trên phạm vi chính trị và tôn giáo. Sách giáo khoa ở trường như McGuffey’s Eclectic Readers không chỉ dậy học sinh cách đọc và viết; chúng dậy phép xã giao và kể những câu chuyện viết ra để minh họa hành động đúng và sai. Vào những năm 1920, tạp chí dành cho trẻ em da đen của W. E. B. Du Bois, The Brownies’ Book, có một chuyên mục thường kỳ tên là “Thẩm phán”, hướng dẫn cho độc giả trẻ về đạo đức và cách cư xử. Có những tổ chức trường học phát triển mạnh mẽ với những cái tên nghiêm túc về mặt đạo đức mà ngày nay nghe có vẻ kỳ lạ – Câu lạc bộ Lịch sự, Câu lạc bộ Tiết kiệm, Tinh thần Hiệp sĩ cho Thanh niên.

Ngoài lớp học còn có nhiều nhóm khác: YMCA; phong trào học ngày Chúa nhật; Nam Hướng đạo và Nữ Hướng đạo; phong trào định cư, đem người giàu và người nghèo lại với nhau để phục vụ những người bị thiệt thòi; Đạo đức đất đai của Aldo Leopold, mở rộng mối quan tâm về đạo đức của chúng ta để gồm cả việc chăm sóc đúng mức cho thế giới tự nhiên; những tổ chức nghề nghiệp thực thi những quy tắc đạo đức; những nghiệp đoàn và tổ chức nơi làm việc, ngoài việc tăng cường bảo vệ người lao động và tiền lương, còn đề cao những tiêu chuẩn nhất định về sự tôn trọng của giai cấp công nhân. Và tất nhiên, vào cuối thế kỷ 19, nhiều người Mỹ đã là tín hữu của nhà thờ hoặc những cộng đồng tôn giáo khác. Niềm tin tôn giáo đơn thuần không phải lúc nào cũng khiến con người trở nên tốt đẹp về mặt đạo đức, nhưng việc sống trong một cộng đồng, hướng trái tim bạn đến một tình yêu siêu việt nào đó, đặt hệ thống giá trị của bạn dựa trên sự quan tâm đến những người không được phục vụ – những điều đó có khuynh hướng như vậy.

Một phương pháp giáo dục có nguồn gốc từ Đức được những xã hội Bác Âu áp dụng từ giữa đến cuối thế kỷ 19 đã có ảnh hưởng lớn đến nước Mỹ. Nó được gọi là Bildung, đại khái có nghĩa là “sự hình thành tâm linh”. Theo quan niệm của Wilhelm von Humboldt, cách giáo dục Bildung đã cho phép những giáo sư hoàn toàn tự do đặt sự phát triển đạo đức vào trung tâm sứ mệnh của trường đại học. Tại những trường học trên khắp Bắc Âu, học sinh nghiên cứu văn học và văn hóa dân gian để xác định cảm xúc, vết thương và điểm yếu của chính mình nhằm trở thành những con người phức tạp mà xã hội hiện đại cần có. Những trường học theo truyền thống Bildung cũng nhằm mục đích làm rõ trách nhiệm của cá nhân đối với thế giới rộng lớn hơn – gia đình, bạn bè, quốc gia, nhân loại. Bắt đầu từ tâm hồn và hướng ra ngoài.

Phong trào Bildung đã giúp truyền cảm hứng cho những chương trình Sách hay xuất hiện ở những nơi như Columbia và Đại học Chicago. Họ dựa trên niềm tin rằng việc đọc những tác phẩm lớn của văn học thế giới và suy nghĩ sâu sắc về chúng sẽ mang lại chìa khóa để sống một cuộc sống phong phú hơn. Trong khi đó, kỷ luật trong những lễ nghi nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày – ăn mặc chỉnh tề, thậm chí chỉ khi đi mua sắm hay đi chơi bóng – được coi là bằng chứng của sự ngay thẳng: bằng chứng cho thấy bạn là người đáng tin cậy khi những thử thách lớn ập đến.

Phần lớn nền giáo dục đạo đức của Mỹ dựa trên đặc tính do hiệu trưởng trường Stowe ở Anh đưa ra; năm 1930 ông viết rằng mục đích của trường là giáo dục ra những chàng trai trẻ “có thể chấp nhận được ở buổi dạ vũ và vô giá trong một vụ đắm tàu.” Viện Hướng dẫn Đạo đức Quốc gia Hoa Kỳ thành lập vào năm 1911 và xuất bản “Quy tắc đạo đức cho trẻ em” với 10 quy tắc để sống đúng đắn. Vào đầu thế kỷ 20, trường Cao đẳng Mount Holyoke, một trường dành cho toàn phụ nữ, là một ví dụ về một cộng đồng đạo đức có chủ ý. Khi Frances Perkins còn là học sinh ở đó, giáo viên dậy tiếng Latinh của cô đã nhận ra sự lười biếng nhất định ở cô. Cô giáo buộc Perkins phải dành hàng giờ để chia những động từ tiếng Latinh để rèn luyện tính tự giác. Perkins ngày càng đánh giá cao điều này: “Lần đầu tiên tôi ý thức được về nhân cách.” Nhà trường cũng kêu gọi phụ nữ đi theo con đường đầy tham vọng về mặt đạo đức. Người sáng lập trường kêu gọi, “Làm những gì không ai muốn làm; hãy đến nơi mà không ai muốn đến. Holyoke đã đưa phụ nữ vào cuộc sống phục vụ ở phi Châu, Nam Á và Trung Đông. Perkins trở thành người phụ nữ đầu tiên phục vụ trong Nội các của tổng thống (của Franklin D. Roosevelt), đã được khích lệ ở đó.

Những phương pháp khác nhau này trong việc giáo dục luân lý có chung hai tiền đề. Đầu tiên là việc rèn luyện trái tim và cơ thể quan trọng hơn việc rèn luyện bộ não lý luận. Một số khả năng đạo đức có thể được dậy theo cách truyền đạt những môn học, bằng sách và bài giảng. Nhưng chúng ta học hầu hết những đức tính theo cách chúng ta học những nghề thủ công, bằng việc lập lại nhiều thói quen và thực hành nhỏ, tất cả đều nằm trong một nền văn hóa đạo đức mạch lạc – một cộng đồng có những giá trị chung, trong đó những thành viên mong muốn có được sự tôn trọng lẫn nhau.

 

https://cdn.theatlantic.com/thumbor/SaMUjjujIHkrxh6eXMydX-T-Fh8=/0x0:2000x2709/928x1257/media/img/posts/2023/07/0923_WEL_Brooks_MoralCollapseSpot/original.jpg

Hình người được làm từ một tấm gương vỡ phản chiếu một cái cây. Ricardo Tomás

 

Tiền đề hướng dẫn khác là những khái niệm như công lý, đúng sai không phải là vấn đề sở thích cá nhân: Đã có một trật tự đạo đức khách quan và con người là những sinh vật có thói quen phạm tội chống lại trật tự đó. Sự công nhận này là trung tâm, ví dụ phong phú, giống như cách mà phong trào dân quyền những năm 1950 và đầu những năm 1960 nghĩ về việc hình thành nhân cách. Martin Luther King Jr. tin rằng: “Thay vì bảo đảm sự tiến bộ về trí tuệ và sự đứng đắn, con người phải đối đầu với khả năng nhanh chóng trở lại với không chỉ là chủ nghĩa thú vật mà còn trở thành sự tàn ác có tính toán mà không loài động vật nào khác có thể thực hiện được.” Ở nơi khác, ông viết, “Sức mạnh của tội lỗi là một đặc điểm cứng đầu của bản chất con người đến nỗi nó chỉ có thể bị kiềm chế khi đơn vị xã hội được trang bị cả sức mạnh đạo đức và thể chất.”

Ở mức tốt nhất, những người xuống đường tuần hành vì dân quyền trong truyền thống tiên tri này hiểu rằng họ có thể trở nên hư hỏng ngay cả khi đang phục vụ một mục đích cao cả. Họ có thể tự cho mình là đúng vì lý tưởng của họ là chính đáng, cứng rắn bởi lòng căm thù đối thủ, kiêu hãnh khi khẳng định quyền lực. Chiến lược bất bạo động của King là một nỗ lực đồng thời vạch trần tội lỗi của những kẻ áp bức họ và kiềm chế những khuynh hướng tội lỗi vốn có trong chính họ. Sử gia George Marsden lập luận: “Điều tạo nên sức thuyết phục mạnh mẽ cho khả năng lãnh đạo và tài hùng biện của King là niềm tin nền tảng của ông rằng luật đạo đức đã được xây dựng trong vũ trụ.”

Cần phải nói một số điều hiển nhiên về đặc tính giáo dục đạo đức đã thống trị đời sống người Mỹ bấy lâu nay. Nó chiếm ưu thế cùng với tất cả những loại thứ bậc mà ngày nay chúng ta thấy thật đáng ghê tởm: người da trắng có giá trị hơn người da đen, đàn ông hơn phụ nữ, người theo đạo Cơ đốc hơn người Do Thái, người thích giao hợp với người khác giới tốt hơn người đồng tính. Và sự nhấn mạnh vào đạo đức đã không tạo ra được những con người hoàn hảo. Sự hình thành đạo đức không thành công trong việc biến con người thành thiên thần – nó cố gắng làm cho họ trở nên tốt hơn những người họ có thể trở thành.

Hơn nữa, chúng ta sẽ không bao giờ muốn quay trở lại những phương pháp giáo dục đã thịnh hành bấy lâu nay, bắt nguồn từ rất nhiều điều bạn không nên làm và quá nhiều sự xấu hổ, cũng như đầy rẫy sự phân biệt chủng tộc và phân biệt giới tính. Tuy nhiên, một sự tính toán khôn ngoan nên thừa nhận rằng việc nhấn mạnh đến việc giáo dục đạo đức có nghĩa là tập trung vào một câu hỏi quan trọng – cuộc sống để làm gì? – và dậy con người cách chịu đựng những khó khăn không thể tránh khỏi. Một nền văn hóa đầu tư vào việc hình thành tính cách đã giúp con người trở nên kiên cường bằng cách mang đến cho họ những lý tưởng để bám vào khi gặp khó khăn. Ở một khía cạnh nào đó, cách áp dụng cũ trong việc hình thành đạo đức, ít nhất về mặt lý thuyết, là có tính quân bình: Nếu địa vị của bạn trong cộng đồng dựa trên nhân cách và danh tiếng, thì một người nông dân có thể có được phẩm giá dễ dàng như một chủ ngân hàng. Đặc tính này ảnh hưởng nặng nề đến tính tự cho mình là trung tâm và thể hiện lòng tự ái. Nó đưa ra những hướng dẫn thực tế về cách trở thành một người hàng xóm tốt, một người bạn tốt.

Và sau đó nó gần như biến mất.

 

Sự chuyển hướng quan trọng xẩy ra ngay sau Thế chiến II, khi mọi người phải vật lộn với những nỗi kinh hoàng của thế kỷ 20. Một nhóm, đại diện tiêu biểu là nhà thần học Reinhold Niebuhr, lập luận rằng những sự kiện gần đây đã phơi bầy sự phổ biến của sự sa đọa của con người và những mối nguy hiểm, đặc biệt là văn hoá bộ lạc, chủ nghĩa dân tộc và lòng kiêu hãnh tập thể. Nhóm này muốn tăng gấp đôi việc giáo dục đạo đức, nhấn mạnh hơn vào sự khiêm tốn.

Một nhóm khác, do Carl Rogers, người sáng lập tâm lý học nhân văn, đại diện tập trung vào vấn đề quyền lực. những thành viên của nhóm này lập luận rằng vấn đề của thế kỷ 20 là sự hiện hữu của hệ thống phân cấp quyền lực cứng nhắc đã dẫn đến sự áp bức trong nhiều lãnh vực của cuộc sống. Nhiều người cho rằng chúng ta cần giải phóng cá nhân khỏi những cơ cấu quyền lực này. Mọi người đều có bản chất tốt và có thể được tin cậy để thực hiện quá trình tự hiện thực hóa bản thân.

 

 

Sau nhiều chục năm không có nhiều hình thức giáo dục đạo đức, nước Mỹ đã trở thành nơi mà 74 triệu người nhìn vào đạo đức của Donald Trump và thấy nhân cách của tổng thống.

 

 

Một loạt sách thành công một cách phi thường đã xuất hiện mười năm sau Thế chiến thứ hai, chứng minh rằng, như Giáo sĩ Joshua Loth Liebman đã viết trong cuốn Peace of Mind (1946), “ngươi không nên sợ hãi những xung lực tiềm ẩn của mình.” Mọi người có thể tin tưởng vào lòng tốt bên trong. Cuốn sách của ông đứng đầu danh sách bán chạy nhất của New York Times trong 58 tuần. Cẩm nang nuôi dậy trẻ đầu tiên của Bác sĩ Spock xuất bản cùng năm. Tiếp theo là những cuốn sách như Sức mạnh của tư duy tích cực (Power of Positive Thinking, 1952). Theo đặc tính này, đạo đức không phải là thứ mà chúng ta phát triển trong cộng đồng. Nó được nuôi dưỡng bằng cách kết nối với con người đích thực của chúng ta và tìm ra tiếng nói thực sự bên trong chúng ta. Nếu con người vốn tốt lành thì chúng ta không cần rèn luyện đạo đức; chúng ta chỉ cần để mọi người tìm thấy chính họ. Hết tổ chức này đến tổ chức khác bước ra khỏi lãnh vực giáo dục đạo đức và bước vào lãnh vực tự nhận thức. Ví dụ, vào giữa những năm 1970, đặc tính phục vụ tah nhân của Nữ Hướng đạo đã thay đổi. Cuốn sổ tay Nữ Hướng đạo Hoa Kỳ hỏi: “Làm thế nào bạn có thể hiểu bạn nhiều hơn? Bạn đang nghĩ gì vậy? Bạn đang cảm thấy thế nào?”

Những trường học bắt đầu từ bỏ việc giáo dục đạo đức vào những năm 1940 và 1950, như sử gia về giáo dục B. Edward McClellan ghi lại trong cuốn Giáo dục đạo đức ở Mỹ
: “Vào những năm 1960, việc giáo dục đạo đức có chủ ý đã rút lui toàn diện” khi giới giáo dục “chú ý nhiều hơn đến vấn đề đạo đức. Điểm SAT của học sinh và cha mẹ thuộc tầng lớp trung lưu tranh nhau tìm trường mang lại cho con họ cơ hội tốt nhất để đủ điều kiện vào những trường cao đẳng và đại học ưu tú.” Anthony Kronman, cựu hiệu trưởng Trường Luật Yale, đã lưu ý rằng giai đoạn hậu chiến là lúc có sự thay đổi tương tự ở cấp đại học. “Lý tưởng nghiên cứu” đã thay thế lý tưởng nhân văn trước đó là giáo dục sinh viên toàn diện. Khi những học giả ngày càng chuyên môn hóa hơn, Kronman lập luận, những câu hỏi lớn – Ý nghĩa của cuộc sống là gì? Làm thế nào để bạn sống một cuộc sống tốt đẹp?—mất tất cả khách hàng. Những câu hỏi như vậy trở nên thiếu chuyên nghiệp đối với một học giả.

Hết lãnh vực này đến lãnh vực khác, người ta quyết định rằng lý luận đạo đức không thực sự phù hợp. James Davison Hunter, một học giả nổi tiếng người Mỹ về giáo dục nhân cách, đã lưu ý vào năm 2000, tầm nhìn của tâm lý học ngày càng phát triển, đặc biệt là trong những vấn đề gia đình và giáo dục, ngữ vựng của nó đóng khung “hầu như tất cả những cuộc thảo luận chung” về đời sống đạo đức của trẻ em. “Trong nhiều chục năm nay, những đóng góp của giới triết gia và thần học đều câm nín hoặc không hiện hữu.” Tâm lý học là một nghề tuyệt vời, nhưng mục tiêu của nó là sức khỏe tinh thần chứ không phải sự phát triển đạo đức.

Ngay từ đầu, một số người đã lo lắng về việc tư nhân hóa đạo đức này. Walter Lippmann đã viết trong tuyển tập năm 1955 của ông, những bài tiểu luận về Triết học công cộng, “Nếu điều gì tốt, điều gì đúng, điều gì đúng chỉ là điều mà cá nhân ‘chọn’ để ‘phát minh’
thì chúng ta đang ở ngoài truyền thống lễ độ.” Cuốn sách của ông đã được những nhân vật nổi tiếng như nhà sử học Arthur M. Schlesinger Jr. tán thành; sự suy thoái đạo đức của văn hóa Mỹ đang diễn ra.

Trong suốt thế kỷ 20, những chữ liên quan đến đạo đức ngày càng ít xuất hiện trong sách quốc gia: Theo một bài báo năm 2012, việc sử dụng một nhóm chữ liên quan đến đạo đức cũng giảm đáng kể. Trong số đó có sự can đảm (giảm 65%), sự biết ơn (58%) và sự khiêm tốn (55%). Trong nhiều chục năm, giới nghiên cứu đã hỏi những sinh viên đại học sắp nhập học về mục tiêu cuộc sống của họ. Năm 1967, khoảng 85% cho biết họ có động lực mạnh mẽ để phát triển “một triết lý sống có ý nghĩa”; đến năm 2000, chỉ có 42% nói như vậy. Khá giả về tài chính đã trở thành mục tiêu hàng đầu trong cuộc sống; đến năm 2015, 82% sinh viên cho biết mục tiêu của họ là giàu có.

Trong một nền văn hóa không có giáo dục đạo đức, nhiều thế hệ sẽ lớn lên trong một thế giới thiếu đạo đức và tự quy chiếu. Chuyên gia xã hội học Christian Smith của trường Notre Dame và một nhóm những chuyên gia nghiên cứu đã hỏi những người trẻ trên khắp nước vào năm 2008 về đời sống đạo đức của họ. Một trong những kết quả nghiên cứu của họ là những người được phỏng vấn đã không suy nghĩ nhiều về đạo đức. Một thanh niên nói với những người nghiên cứu: “Tôi chưa bao giờ phải lấy quyết định về điều gì đúng và điều gì sai.” Nnhiều thanh thiếu niên nói, “Thầy cô của tôi tránh những tranh cãi như tránh bệnh dịch.”

Những bản năng đạo đức mà Smith nhận thấy trong mẫu nghiên cứu của ông rơi vào khuôn mẫu mà triết gia Alasdair MacIntyre gọi là “chủ nghĩa cảm xúc”: Bất cứ điều gây cảm xúc tốt đều là đạo đức. Một trong những người được phỏng vấn tuyên bố, “Tôi có thể sẽ làm những gì khiến tôi hạnh phúc” trong bất kỳ hoàn cảnh nào. “Bởi vì về lâu dài đó là tôi.” Như một người khác đã nói, “Nếu bạn thấy không hề gì về mặt đạo đức, miễn là bạn không bị bắt thì điều đó không thực sự trái với đạo đức của bạn, phải không?” Smith và những đồng nghiệp của ông nhấn mạnh rằng những người được phỏng vấn không phải là người xấu, nhưng vì họ đang sống “trong một thế giới rất mỏng manh hoặc không có đạo đức” nên họ chưa bao giờ được cung cấp vốn ngữ vựng về đạo đức hoặc học được những khả năng đạo đức.

Hầu hết chúng ta, những người nhận thấy tiến trình sa sút đạo đức khi nó đang diễn ra đều nghĩ rằng kết quả là một chủ nghĩa tương đối đạo đức nhạt nhẽo và chủ nghĩa tiêu dùng trống rỗng: Bạn làm bạn cho và tôi sẽ làm theo ý tôi. Đó không phải là những gì đã xẩy ra.

Chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt viết trong cuốn The Righteous Mind: “Cộng đồng đạo đức là những thứ mong manh, khó xây dựng và dễ phá hủy.” Khi bạn lớn lên trong một nền văn hóa không có cấu trúc đạo đức, nội tâm bạn sẽ trở nên mong manh. Bạn không có la bàn đạo đức để chỉ đường cho mình, không có lý tưởng lâu dài nào để bạn có thể thề trung thành tuyệt đối. “Người có lý do để sống có thể chịu đựng được hầu hết mọi chuyện,” bác sĩ tâm thần (và người sống sót sau thảm họa diệt chủng Holocaust) Viktor Frankl đã viết, giải thích một câu nói nổi tiếng của Nietzsche. Những người không có lý tưởng sẽ sụp đổ khi giông bão ập đến. Họ bắt đầu phải chịu đựng cảm giác trống rỗng về mặt đạo đức mà Émile Durkheim gọi là “anomie”[tình trạng thiếu tiêu chuẩn đạo đức].

Mong đợi mọi người tự mình xây dựng một đời sống tinh thần và đạo đức thỏa mãn bằng cách nhìn vào nội tâm của bản thân là một đồi hỏi hơi quá. Một nền văn hóa khiến con người trở nên trần trụi về mặt đạo đức và cô đơn khiến họ không có khả năng để đối xử tử tế với nhau. Niềm tin xã hội giảm sút một phần vì ngày càng có nhiều người không đáng tin cậy. Điều đó tạo ra đám đông mà những nhà tâm lý học gọi là “những người tự ái dễ bị tổn thương”. Tất cả chúng ta đều biết những người tự ái cao độ—những người tôn xưng mình là trung tâm của vũ trụ. Những người tự ái dễ bị tổn thương là những nhân vật phổ biến hơn trong thời đại chúng ta – những người cũng nghiện nghĩ về bản thân nhưng thường cảm thấy lo lắng, bất an và né tránh. Cực kỳ nhậy cảm với sự khi bị từ chối, họ dọ tìm những dấu hiệu thiếu tôn trọng. Lòng tự trọng của họ đang thay đổi mạnh. Sự không chắc chắn về giá trị bên trong của họ gây ra những chu kỳ nghi ngờ, xấu hổ và thù địch.

Luke Bretherton, một nhà thần học tại Trường Thần học Duke, nói với tôi: “Sự phá vỡ khuôn khổ đạo đức lâu dài sẽ luôn tạo ra sự mất kết nối, xa lánh và ghẻ lạnh với những người xung quanh bạn.” Kết quả là tôi thấy những người xung quanh cảm thấy buồn bã. Những thanh niên mà tôi biết đang ngày càng tuột vào vòng xoáy, bỏ học, chuyển từ cơ sở chăm sóc sức khỏe tâm thần này sang cơ sở chăm sóc sức khỏe tâm thần khác. Sau buổi nói chuyện của tôi ở Oklahoma, một người phụ nữ hỏi tôi: “Bạn sẽ làm gì khi không còn muốn sống nữa?” Ngay đêm hôm sau, tôi ăn tối với một phụ nữ, người này nói với tôi rằng anh trai cô ấy đã tự tử ba tháng trước. Tôi đã đề cập đến những sự kiện này với một nhóm bạn trong một cuộc gọi Zoom và gần một nửa trong số họ nói rằng họ đã từng va chạm với tự tử trong gia đình mình. Số liệu thống kê vẽ nên bức tranh rộng hơn: Tỷ lệ tự tử đã tăng hơn 30% kể từ năm 2000, theo CDC.

Nỗi buồn, sự cô đơn, sự tự làm hại bản thân biến thành sự cay đắng. Nỗi đau xã hội cuối cùng là phản ứng trước cảm giác bị phủ nhận – như vô hình, không được lắng nghe, không được tôn trọng, là nạn nhân. Khi mọi người cảm thấy danh tính của họ không được công nhận, kinh nghiệm đó được coi là một sự bất công – bởi vì nó đúng là như vậy. Những người bị đối xử bất công thường đả kích và tìm cách làm nhục những người mà họ cho rằng đã làm nhục họ.

 

 

Ngay cả khi cuộc sống ngoài xã hội của chúng ta ngày càng trở nên trần trụi về mặt đạo đức, mọi người vẫn khao khát cảm thấy được tôn trọng và đáng được tôn trọng, cần cảm thấy rằng cuộc sống của họ có mục đích và ý nghĩa đạo đức nào đó.

 

 

Thời đại cô đơn không chỉ là thời đại buồn bã; chúng là thời của bạo lực. Ở Mỹ thế kỷ 19, khi có rất nhiều thanh niên cô đơn băng qua biên giới miền Tây, một trong những điều họ có khuynh hướng làm là bắn nhau. Như người ta vẫn nói, nỗi đau không thể chuyển hóa sẽ được truyền đi. Mọi người ngày càng trở nên nhẫn tâm, phòng thủ, không tin tưởng và thù địch. Đại dịch khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn, nhưng hành vi chống đối xã hội vẫn ở mức cao mặc dù lệnh phong tỏa đã kết thúc. Và bây giờ chúng ta đang bị cuốn vào một vòng luẩn quẩn, đối xử tệ bạc dẫn đến nhục nhã và sỉ nhục dẫn đến hèn hạ hơn. Đời sống xã hội trở nên man rợ hơn, trực tuyến và tắt máy.

Nếu bạn đặt mọi người vào khoảng trống đạo đức, họ sẽ tìm cách lấp đầy nó bằng những thứ gần gũi nhất trong tầm tay. Trong nhiều năm qua, người ta đã tìm cách lấp đầy khoảng trống đạo đức bằng chính trị và văn hoá bộ lạc. Xã hội Mỹ đã trở nên siêu chính trị hóa.

Theo nghiên cứu của Ryan Streeter, giám đốc nghiên cứu chính sách đối nội tại Viện Doanh nghiệp Mỹ, những người trẻ cô đơn có khả năng nói rằng họ hoạt động chính trị cao gấp 7 lần so với những người trẻ không cô đơn. Đối với những người cảm thấy không được tôn trọng, không được chú ý và cô đơn, chính trị là một hình thức trị liệu xã hội đầy quyến rũ. Nó mang đến cho họ một bối cảnh đạo đức dễ hiểu: Ranh giới giữa thiện và ác không nằm ở giữa trái tim mỗi con người, mà là giữa những nhóm. Cuộc sống là một cuộc đấu tranh giữa chúng ta, thế lực của cái thiện và họ, thế lực của cái ác.

Văn hoá bộ lạc Manichaean trong chính trị dường như mang lại cho mọi người cảm giác thân thuộc. Trong nhiều năm, nước Mỹ dường như chìm đắm trong nền văn hóa siêu cá nhân. Nhưng ngày nay, mọi người nhanh chóng xác định mình theo nhóm của họ: Đảng Cộng hòa, Đảng Dân chủ, người theo đạo Tin lành, người da mầu, LGBTQ, người miền Nam, người yêu nước, cấp tiến, bảo thủ. Những người cảm thấy bị cô lập và bị đe dọa chạy trốn đến những bản sắc tổng thể.

Chính trị dường như mang lại cho con người cảm giác về lẽ phải: Tầm vóc đạo đức của một người không dựa trên hành động và ứng xử của họ mà dựa trên vị trí của họ trên quang phổ chính trị. Bạn không cần phải giỏi; bạn chỉ cần theo chủ nghĩa tự do – hoặc bạn chỉ cần bảo thủ. Tuyên bố của một nhóm về tình trạng nạn nhân càng mạnh mẽ thì nhóm đó càng được coi là có đạo đức và những thành viên của nhóm càng cảm thấy an toàn hơn về sự vô tội của chính họ.

Chính trị cũng mang lại một cách dễ dàng để cảm nhận được mục đích. Bạn không cần phải cho người đói ăn hay ngồi trò chuyện với bà góa mới có đạo đức; bạn chỉ cần có cảm xúc phù hợp. Bạn tự lừa dối mình rằng bạn đang tham gia vào đời sống công dân bằng cách cảm thấy tức giận phía bên kia. Cơn giận dữ chính đáng dâng lên trong lòng bạn cho bạn biết rằng bạn đang quan tâm đến đất nước này. Cuộc chiến văn hóa là một cuộc đấu tranh mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.

Chính trị lấn át mọi thứ. Nhà thờ, trường đại học, thể thao, văn hóa đại chúng, y tế bị cuốn vào một loạt trận chiến mà thực chất chỉ là một cuộc chiến lớn – đỏ với xanh. Truyền giáo từng là một đức tin; ngày nay nó chính là một bản sắc chính trị. Khoa nhân văn của trường đại học từng nghiên cứu văn học và lịch sử để thăm dò trái tim và khối óc con người; bây giờ đôi khi họ dường như chỉ bận tâm đến chính trị và với những hệ thống áp bức xây dựng xung quanh chủng tộc, giai cấp và giới tính. Những chương trình hài kịch đêm khuya đã trở thành những cuộc biểu tình cổ võ chính trị. Hàng trăm ngàn người Mỹ đã chết một cách không cần thiết trong đại dịch vì người ta nhìn thấy virus qua lăng kính của một cuộc đấu tranh chính trị.

Đây không phải là chính trị như người ta thường hiểu. Trong những xã hội lành mạnh về mặt tinh thần, mọi người đấu tranh vì chính sách phân phối về: Thuế nên cao đến mức nào? Nên chi bao nhiêu tiền cho những chương trình xã hội dành cho người nghèo và người già? Chúng ta đã chuyển trọng tâm từ chính trị tái phân phối sang chính trị công nhận. Những phong trào chính trị thúc đẩy do sự oán giận, vì cảm giác rằng xã hội không tôn trọng hay công nhận tôi. Chính khách và giới truyền thông dựng lên những vở kịch trong đó phe của chúng ta được công nhận về mặt cảm xúc còn phe kia thì xấu hổ về mặt cảm xúc. Người thực hiện chính sách công nhận không cố giành lấy nguồn lực cho bản thân hoặc khu vực bầu cử của mình; ông ấy đang muốn ngưỡng mộ chính mình. Ông ta đang cố dùng chính trị để lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn mình. Nó không đem lại kết quả.

Chính trị công nhận không mang lại cho bạn cộng đồng và sự kết nối, chắc chắn không phải trong một hệ thống như hệ thống hiện tại của chúng ta, sa lầy vào tình trạng rối loạn hệ thống về cấu trúc. Mọi người tham gia những phe nhóm, đảng phái để tìm sân chơi nhưng cuối cùng họ lại ở trong một đám đông cô đơn gồm những kẻ hiếu chiến biệt lập, những người chỉ tuân theo cùng một hệ thống chính thống.

Nếu bạn yêu cầu chính trị trở thành nguồn ý nghĩa ngự trị trong cuộc sống của bạn, thì bạn đang yêu cầu chính trị nhiều hơn mức nó có thể làm được. Việc tìm cách thoát khỏi nỗi buồn, sự cô đơn và tình trạng bất an bằng chính trị chỉ khiến bạn rơi vào một thế giới đánh dấu bằng sự sợ hãi và thịnh nộ, với sự phấn đấu tàn bạo để thống trị. Chắc chắn, bạn đã rời khỏi khoảng trống đạo đức – nhưng bạn đã rơi vào sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh đạo đức. Nền chính trị công nhận đã không tạo ra một xã hội hạnh phúc. Trong những cuộc Tổng khảo sát xã hội. khi được yêu cầu đánh giá mức độ hạnh phúc của họ, 20% người Mỹ vào năm 2022 đánh giá nó ở mức thấp nhất – chỉ 8% làm như vậy vào năm 1990.

Những người sáng lập nước Mỹ đã nghiên cứu lịch sử của những nền dân chủ từ thời Hy Lạp cổ đại. Họ đã rút ra bài học rằng những nền dân chủ có thể khá mong manh. Khi đạo đức cá nhân thất bại, trật tự hiến pháp sẽ sụp đổ. Sau nhiều chục năm không có nhiều hình thức giáo dục đạo đức, nước Mỹ đã trở thành nơi có hơn 74 triệu người nhìn vào đạo đức của Donald Trump và thấy nhân cách tổng thống.

Ngay cả trong thời kỳ đen tối, những tia sáng của sự đổi mới vẫn xuất hiện. Năm 2018, một bộ phim tài liệu về Mister Rogers tên “Bạn sẽ là hàng xóm của tôi chứ?” đã được phát hành. Bộ phim đã cho thấy Fred Rogers thể hiện tất cả lòng tốt giản dị của ông ấy – những hành động rộng lượng nhỏ bé của ông ấy; sự thể hiện sự dễ bị tổn thương của ông ta; sự tôn trọng, thậm chí là tôn kính của ông đối với mỗi đứa trẻ ông gặp. Mọi người đã khóc một cách công khai khi xem nó ở rạp. Trong thời đại xung đột và đe dọa, cảnh tượng về lòng tốt triệt để thật cảm động.

Vào mùa hè năm 2020, loạt phim Ted Lasso ra mắt. Khi Lasso mô tả mục tiêu của mình với tư cách là một huấn luyện viên túc cầu, ông ấy có thể đề cập đến chức vô địch mà ông ấy hy vọng giành được hoặc một số thước đo thành công thông thường khác, nhưng ông ấy nói, “Đối với tôi, thành công không phải là thắng và thua. Đó là việc giúp những thiếu niên này trở thành phiên bản tốt nhất của chính họ trong và ngoài sân cỏ.”

Đó là hai câu mô tả việc rèn luyện đạo đức. Ted Lasso kể về một người con người nghiêm túc, vui vẻ và minh bạch bước vào một thế giới ngày càng hoài nghi, vô đạo đức và mánh khoé, và hết tập này đến tập khác, ngay cả khi gặp những rắc rối của chính mình, ông ấy mang đến cho những người xung quanh cơ hội để trở nên duyên dáng hơn, để đối phó với những tổn thương và nỗi sợ hãi của họ, đồng thời đối xử với nhau một cách nhẹ nhàng và khôn ngoan hơn. Trong bối cảnh những lệnh phong toả và sự thù địch chính trị, nó đã trở thành một tiêu chuẩn văn hóa và là chương trình được xem nhiều nhất trên Apple TV+.

Ngay cả khi cuộc sống ngoài xã hội của chúng ta ngày càng trở nên trần trụi về mặt đạo đức, mọi người, như một phần bản chất cơ bản của họ, khao khát cảm thấy được tôn trọng và đáng được tôn trọng, cần cảm thấy rằng cuộc sống của họ có mục đích và ý nghĩa đạo đức nào đó. Mọi người vẫn muốn xây dựng một xã hội trong đó dễ dàng trở thành người tốt hơn. Vì vậy, những câu hỏi trước mắt chúng ta khá đơn giản: Làm thế nào chúng ta có thể xây dựng những thể chế giáo dục về mặt đạo đức phù hợp với thế kỷ 21? Chúng ta cần làm gì để xây dựng một nền văn hóa giúp mọi người trở thành phiên bản tốt nhất của chính họ?

 

 

Hệ sinh thái đạo đức lành mạnh không tự nhiên xẩy ra. Chúng phải được gieo hạt và chăm sóc.

 

 

Một vài điều cần thiết hiện lên trong đầu ngay lập tức.

Một tầm nhìn hiện đại về cách xây dựng nhân cách. Những mô hình xây dựng nhân cách kiểu cũ đã bị phân loại theo giới tính một cách vô vọng. Đàn ông được cho là phải thể hiện ý chí sắt đá để giúp họ đạt được khả năng tự chủ trước những đam mê ngang ngược của mình. Phụ nữ phải ẩn mình trong một thế giới dịu dàng như thục nữ để không bị những ảnh hưởng xấu và những ham muốn hèn hạ làm hư hỏng. Những công thức đó ngày nay đã lỗi thời.

Cách giải quyết hiện đại nhất để gầy dựng nhân cách được mô tả trong cuốn sách The Sovereignty of Good của Iris Murdoch. Murdoch viết rằng “không có gì trong cuộc sống có giá trị ngoại trừ nỗ lực trở thành người có đạo đức.” Đối với tác giả, đời sống đạo đức không chỉ được định nghĩa bằng những hành động can đảm hay sự hy sinh vĩ đại trong những khoảnh khắc huy hoành. Thay vào đó, đời sống đạo đức là một điều gì đó diễn ra liên tục—đối xử ân cần với mọi người trong những hoàn cảnh phức tạp của cuộc sống hàng ngày. Đối với bà, hành động đạo đức thiết yếu là dành sự quan tâm “công bằng và yêu thương” cho người khác.

Murdoch lập luận rằng thông thường, chúng ta trải qua những ngày của mình với con mắt ích kỷ và cho mình. Chúng ta nhìn và đánh giá mọi người theo những cách thỏa mãn cái tôi của chính mình. Chúng ta giảm bớt, rập khuôn và phớt lờ, biến người khác thành những kẻ đóng vai phụ trong vở kịch cá nhân tiêu tốn hết tâm trí của chúng ta. Nhưng chúng ta trở nên tốt hơn về mặt đạo đức, tác giả tiếp tục, khi chúng ta học cách nhìn người khác một cách sâu sắc, khi chúng ta học cách bao bọc người khác bằng sự quan tâm kiên nhẫn, quan tâm khiến họ cảm thấy được nhìn, được nghe và được thấu hiểu. Đây là kiểu chú ý ngầm đặt ra câu hỏi: “Bạn đang lo nghĩ chuyện gì vậy?” và quan tâm đến câu trả lời.

Tôi trở thành một người tốt hơn khi tôi tò mò hơn về những người xung quanh mình, khi tôi trở nên thành thạo hơn trong việc nhìn nhận từ quan điểm của họ. Khi tôi học cách nhìn nhận bạn bằng sự quan tâm kiên nhẫn và yêu thương, tôi sẽ có khuynh hướng đối xử tốt với bạn. Murdoch kết luận: “Chúng ta có thể phát triển bằng cách quan sát.”

Những khóa học khả năng gia tế xã hội bắt buộc. Công thức xây dựng nhân cách của Murdoch bắt nguồn từ hành động đơn giản là chú ý: Tôi có quan tâm chu đáo đến bạn không? Nó cũng nhấn mạnh rằng nhân cách được hình thành và thể hiện khi chúng ta đối xử ân cần với người khác. Điều này không chỉ đòi hỏi một trái tim nhân hậu mà còn cả những khả năng gia tế xã hội tốt: cách lắng nghe tốt. Làm thế nào để không đồng ý mà vẫn tôn trọng. Làm thế nào để xin được và tha thứ. Làm thế nào để kiên nhẫn vun đắp một tình bạn. Làm thế nào để ngồi với một người đang đau buồn hoặc chán nản. Làm thế nào để trở thành một người giao tiếp tốt.

Đây là một số khả năng quan trọng nhất mà một người có thể có. Tuy nhiên, bằng cách nào đó, chúng ta lại không dậy họ. Những trường học của chúng ta dành nhiều năm để chuẩn bị cho học sinh những khả năng chuyên môn nhưng lại rất ít hướng dẫn về cách trở thành một người xuất sắc trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta muốn xây dựng một xã hội tử tế, những trường tiểu học và trung học nên yêu cầu học sinh tham gia những khóa học dậy những khả năng giao tế xã hội cụ thể này và từ đó chuẩn bị cho thiếu niên hòa nhập với nhau trong cuộc sống. Chúng ta có thể tham gia những khóa học về cách trở thành người biết lắng nghe hoặc cách xây dựng tình bạn. Nhà triết học nữ quyền quá cố Nel Noddings đã phát triển cả một phương pháp sư phạm xoay quanh cách chăm sóc người khác một cách hiệu quả.

Một chương trình giảng dậy cốt lõi mới. Ngày càng có nhiều trường cao đẳng và đại học mở những khóa học về cái mà bạn có thể gọi là “cách sống”. Yale có một khoá tên là “Cuộc sống đáng sống”. Notre Dame có một lớp tên là “Chúa và cuộc sống tốt đẹp”. Chương trình danh năm thứ nhất theo hướng này tại Đại học Valparaiso, Indiana, không chỉ gồm việc tiến hành những cuộc tranh luận chính thức về những ý tưởng thu thập được từ Những cuốn sách hay mà còn có phần trình diễn âm nhạc dựa trên chủ đề của chúng. Nhiều khóa học trong số này không cung cấp cho sinh viên một công thức làm sẵn, nhưng họ giới thiệu cho sinh viên một số truyền thống đạo đức đáng kính—Phật giáo, Do Thái giáo–Kitô giáo, và Chủ nghĩa Duy lý Khai sáng, cùng nhiều truyền thống khác. Họ giới thiệu cho học sinh những nhà tư tưởng đã suy nghĩ kỹ về những vấn đề đạo đức, từ Aristotle đến Desmond Tutu đến Martha Nussbaum. Họ đưa ra những tấm gương đa dạng để làm hình mẫu về cách sống tốt. Họ đặt những câu hỏi lớn của cuộc sống lên bàn cân: Niềm đam mê thống trị tâm hồn bạn là gì? Bạn chịu trách nhiệm trước ai? Nghĩa vụ đạo đức của tôi là gì? Điều gì sẽ làm cho cuộc sống của tôi có ý nghĩa? Trở thành một con người tốt trong thế giới ngày nay có nghĩa là gì? những vấn đề trọng tâm mà chúng ta cần giải quyết liên quan đến công nghệ mới và cuộc sống con người là gì?

Những câu hỏi này xung đột với đặc tính của trường đại học hiện đại, được xây dựng xoay quanh việc chuyên môn hóa và truyền lại kiến
​​thức chuyên môn hoặc kỹ thuật. Nhưng chúng là những khóa học quan trọng nhất mà một trường đại học có thể cung cấp. Họ không nên ở bên lề của đời sống học thuật. Chúng phải là một phần của chương trình giảng dậy cốt lõi bắt buộc.

Dịch vụ liên thế hệ. Chúng ta dành phần lớn cuộc đời mình để sống theo logic của chế độ nhân tài: Cuộc sống là một cá nhân leo lên hướng tới thành công. Đó là về việc theo đuổi lợi ích cá nhân.

Phải có ít nhất hai giai đoạn trong cuộc đời mà con người có cơ hội được nghỉ phép khỏi chế độ nhân tài và sống theo một logic khác – logic của sự phục vụ: Bạn phải cho đi để nhận lại. Bạn phải đánh mất chính mình vì một mục đích chung để tìm thấy chính mình. Mối quan hệ sâu sắc nhất của con người là mối quan hệ quà tặng, dựa trên sự quan tâm lẫn nhau. (Một mô hình rõ ràng cho ít nhất một số khía cạnh của điều này là văn hóa của quân đội Hoa Kỳ, trong đó cũng nhấn mạnh đến danh dự, sự phục vụ, lòng vị tha và tính cách ủng hộ một mục đích cao cả hơn bản thân mình, tập hợp những người Mỹ ở những lứa tuổi và hoàn cảnh khác nhau, những người rèn giũa mạnh mẽ. những mối quan hệ xã hội.)

Những ngày nghỉ phép đó có thể xẩy ra vào cuối năm học và cuối năm làm việc. những chương trình dịch vụ quốc gia có thể đoàn kết những người trẻ và người già lại với nhau để làm việc nhằm giải quyết những nhu cầu của cộng đồng.

Những chương trình này sẽ cho phép mọi người có kinh nghiệm cách sống lấy người khác làm trung tâm và phát triển những thói quen đạo đức thực tế: cách hợp tác với những người không giống bạn. Làm thế nào để xuất hiện ngày này qua ngày khác khi tiến độ còn chậm. Làm thế nào để làm công việc hào phóng và chăm chỉ.

Những tổ chức đạo đức Hầu hết những tổ chức đều phục vụ hai nhóm mục tiêu – mục tiêu đạo đức và mục tiêu công cụ. Bệnh viện chữa bệnh và cũng tìm cách kiếm tiền. Báo chí và tạp chí đua tin cho công chúng và cũng cố gắng tạo ra những cú nhấp chuột, “câu view”. những công ty luật bảo vệ khách hàng và cũng cố gắng tối đa hóa số giờ phải trả. Những tổ chức phi lợi nhuận nhằm mục đích phục vụ lợi ích công cộng và cũng quyên tiền.

Trong xã hội chúng ta, những mục tiêu thương mại hoặc vị lợi có khuynh hướng làm lu mờ những mục tiêu đạo đức. Những bác sĩ bị ban quản lý bệnh viện gây áp lực phải gấp rút tìm bệnh nhân để họ có thể tính thêm phí. Những nhà báo được khuyến khích viết những câu chuyện xác nhận định kiến
​​của độc giả để lọt vào danh sách được đọc nhiều nhất. Toàn bộ công ty rơi vào tư duy tối ưu hóa, trong đó mọi thứ đều được thực hiện để tăng sản lượng và hiệu quả.

Sự đổi mới đạo đức sẽ không đến cho đến khi chúng ta có những người lãnh đạo rõ ràng, lớn tiếng và đáng tin cậy về cả hai mục tiêu. Đây là cách chúng ta phát triển về mặt tài chính, nhưng cũng là cách chúng ta học cách đối xử với nhau bằng sự quan tâm và tôn trọng; đây là cách chúng ta sẽ từ bỏ một số lợi nhuận tài chính để phục vụ tốt hơn sứ mệnh cao cả của mình.

Khi bắt đầu sự nghiệp như một chuyên gia truyền hình tại PBS NewsHour, tôi đã làm việc với người dẫn chương trình, Jim Lehrer. Hàng ngày, bằng một loạt cử chỉ nhỏ, ông ấy ra hiệu ở đó loại ứng xử nào được coi trọng và loại nào không được chấp nhận. Bằng cách tinh tế này, ông đã thiết lập một loạt những chuẩn mực và thông lệ vẫn còn áp dụng. Ông và những người khác đã xây dựng một hệ sinh thái đạo đức dầy đặc và mạch lạc, và cách hoạt dộng của nó đã được hầu hết những người từng làm việc ở đó tiếp thu.

Chính trị như một doanh nghiệp đạo đức. Một nhãn hiệu cổ xưa của chủ nghĩa phi luân lý hiện đang ám ảnh thế giới. Những người lãnh đạo theo phong cách độc tài như Donald Trump, Vladimir Putin và Tập Cận Bình là hiện thân của một kiểu chủ nghĩa hiện thực phi luân lý. Họ thể hiện một lối suy nghĩ cho rằng thế giới là một nơi hung ác, chó ăn thịt chó. Cuộc sống là một cuộc cạnh tranh để giành lấy những gì bạn có thể. Sức mạnh là điều quan trọng. Đạo đức là một thứ xa xỉ mà chúng ta không thể mua được, hoặc chỉ đơn thuần là một thứ giả tạo mà giới thượng lưu sử dụng để che giấu ham muốn quyền lực của chính họ. Bầu cho những người nói dối, tham nhũng cũng được, miễn là họ là những kẻ khốn nạn tàn nhẫn cho phe chúng ta. Cứu cánh biện minh cho phương tiện.

Ngược lại, những người trong chúng ta phản đối những nhân vật độc tài này lại ủng hộ triết lý về chủ nghĩa hiện thực đạo đức. Vâng, tất nhiên con người ích kỷ và cuộc sống có thể khắc nghiệt. Nhưng qua nhiều thế kỷ, những nền văn minh đã thiết lập những quy tắc và đạo lý để nuôi dưỡng sự hợp tác, xây dựng niềm tin và làm dịu đi vận mệnh của chúng ta. Chúng gồm những quy tắc đạo đức cá nhân để chúng ta biết cách đối xử tốt với nhau, những quy tắc đạo đức giúp ngăn ngừa tham nhũng trong công việc và trong đời sống xã hội, và những quy tắc của trật tự thế giới tự do để những quốc gia có thể sống trong hòa bình, an toàn trong biên giới của mình.

Những người theo chủ nghĩa hiện thực về đạo đức đang đấu tranh để bảo vệ và hiện đại hóa những quy tắc và tiêu chuẩn này – những nền tảng của nền văn minh. Chủ nghĩa hiện thực đạo đức được xây dựng trên những nguyên tắc cốt lõi nhất định. Nhân cách là định mệnh. Chúng ta có thể bầu những người cố gắng thể hiện những tiêu chuẩn cao nhất về sự trung thực, lòng tốt và tính chính trực, hoặc bầu những người phá bỏ những tiêu chuẩn đó. Nghệ thuật lãnh đạo hay hành động và chính sách của chính phủ hình thành nên bản chất luân lý và đạo đức của công dân. Những luật lệ chúng ta thông qua sẽ định hình nên loại người mà chúng ta trở thành. Chúng ta có thể cấu trúc bộ luật thuế của mình để khuyến khích mọi người dám nghĩ dám làm và tiết kiệm nhiều hơn, hoặc chúng ta có thể cấu trúc bộ luật này để khuyến khích mọi người thông đồng và hoang phí. Dân chủ là hệ thống nâng cao phẩm giá con người một cách tốt nhất. Những chế độ dân chủ trao quyền lực cho nhân dân và cố gắng giáo dục con người để họ có trách nhiệm với sự tin tưởng đó. Những chế độ độc tài tìm cách tạo ra một thế giới trong đó kẻ mạnh làm những gì họ có thể và kẻ yếu phải chịu đựng những gì họ phải chịu.

Tôi hiểu tại sao mọi người không muốn ứng xử như người đạo đức ngoài xã hội. Nhiều người trong số đó làm như vậy là những kẻ tự cho mình là đúng, hoặc những kẻ đạo đức giả. Và tất cả điều này chỉ là một sự khởi đầu. Nhưng hệ sinh thái đạo đức lành mạnh không tự nhiên xẩy ra. Chúng phải được gieo mầm và chăm sóc bằng những người suy nghĩ và nói chuyện theo đạo đức, những người cố gắng làm gương và khắc sâu ứng xử đạo đức, những người hiểu rằng chúng ta phải xây dựng những cộng đồng đạo đức vì bản thân chúng ta đều ích kỷ và thiếu sót. Việc rèn luyện đạo đức tốt nhất là khi nó khiêm tốn. Nó có nghĩa là trang bị cho mọi người những khả năng và thói quen giúp họ quan tâm đến người khác trong những hoàn cảnh phức tạp của cuộc sống. Nó có nghĩa là giúp đỡ mọi người cư xử theo cách khiến người khác cảm thấy được hòa nhập, được nhìn nhận và được tôn trọng. Điều đó rất khác với cách chúng ta đối xử với mọi người hiện nay—theo những cách khiến họ cảm thấy buồn và cô đơn, và khiến họ trở nên không tử tế.

 

https://external-content.duckduckgo.com/iu/?u=https%3A%2F%2Fmedia.newyorker.com%2Fphotos%2F5cb607a52d70562dbdd59a8c%2Fmaster%2Fw_727%2Cc_limit%2FBWW-DavidBrooks-edit.jpg&f=1&nofb=1&ipt=179f297100eae5ab561f6c4fc98bfa1e6b568cf388e343480dfcbff28e370a92&ipo=images

Tác giả | David Brooks là cộng tác viên của tờ The Atlantic và là tác giả của cuốn sách sắp xuất bản Làm thế nào để nhận biết một người: Nghệ thuật nhìn sâu sắc người khác và được nhìn nhận sâu sắc [How to Know a Person: The Art of Seeing Others Deeply and Being Deeply Seen.]

 

© 2024 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: How America Got Mean | David Brooks | The Atlantic | September 2023. Bài viết này đăng trong ấn bản tháng 9 năm 2023 của tạp chí The Atlantic, tựa đề “How America Got Mean”.

 

 





No comments: