11-8-2023
https://thuymyrfi.blogspot.com/2023/08/nguyen-van-tuan-ai-nuoi-truong-ai-hoc.html#more
Ở quê tôi, một làng thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu
Long, trước 1975, được vào đại học là một dấu hiệu của thành tựu khoa bảng.
Thời đó, cứ 100 học sinh thi tú tài, chỉ 30-40
người đậu, và trong số người đậu, chỉ 5-10 % vào được đại học. Làng tôi chỉ
cách thị xã Rạch Giá chừng 20 cây số, nhưng số người đậu tú tài đếm đầu ngón
tay, số tốt nghiệp đại học càng hiếm. Một người tốt nghiệp đại học, cả làng tự
hào.
Phải đến cuối thập niên 1990, cánh cửa đại học
mới mở rộng. Mấy năm trước về quê ăn Tết, tôi nghe kể một danh sách dài con
cháu của những người nông dân hàng xóm đã tốt nghiệp, một số đang phục vụ tại
các bệnh viện ngoài Rạch Giá. Trong số đó, có không ít người gốc Khmer và nghèo
khó. Tôi thầm nghĩ chính sách giáo dục đã phần nào thành công, làm ngắn
"khoảng cách đại học" giữa nông thôn và thành thị, giữa người giàu và
nghèo.
Nhưng năm nay, tình hình
khác đi. Một vài học sinh trong xóm tôi không có ý định học đại học, vì học phí
cao, trong khi kinh tế gia đình ngày một khó khăn. Học phí dao động 30 đến 50
triệu đồng mỗi năm, chưa tính các khoản chi khác. Ở quê tôi, một gia đình nông
dân với 10 công đất, sau khi trừ các chi phí, mỗi năm chỉ dư chừng 70 triệu đồng.
Với mức thu nhập như thế, con em họ rất khó theo đuổi con đường học vấn.
Đó là hậu quả dễ thấy của chủ trương tăng học
phí. Theo Nghị định 81, học phí đại học năm nay dự kiến tăng 10-15 % so với năm
trước. Năm 2020, học phí các ngành y tế dao động 15-20 triệu đồng một năm,
nhưng chỉ ba năm sau đã tăng lên mức dự kiến 55-60 triệu đồng.
Không quá khó hiểu khi các đại học phải tăng học
phí để... tồn tại. Theo phân tích của Ngân hàng Thế giới, năm 2017, 24 % tổng
thu nhập của các trường đại học công lập là từ ngân sách Nhà nước, bốn năm sau
con số này chỉ còn 9 %. Học phí, từ chỗ chiếm 57 % tổng thu nhập, bốn năm sau
nhảy lên 77 %. Sự tồn tại của các đại học lệ thuộc vào học phí.
Đó là một xu hướng đáng ngại.
Sự lệ thuộc quá lớn vào học phí có thể dẫn đến
suy giảm phẩm chất đào tạo. Tình trạng này đã xảy ra ở Úc khi các đại học nhắm
mắt hạ thấp điểm chuẩn để tăng số sinh viên, do đó 'hy sinh' chất lượng đào tạo.
Tăng học phí cũng làm gia tăng khoảng cách
giáo dục giữa người giàu và người nghèo. Đó là kinh nghiệm ở Canada. Khi chính
quyền tỉnh Ontario cho phép đại học tăng học phí, họ sau đó ghi nhận tình trạng
giảm ghi danh ở những thành phần lao động nghèo. Tại các tỉnh khác như Quebec
và British Columbia, những nơi không thay đổi học phí, thì không có thay đổi về
tỉ lệ ghi danh giữa các thành phần kinh tế.
Mối lo ngại này đã được Chính phủ nhìn ra,
thông qua chỉ đạo của phó Thủ tướng về việc sửa Nghị định 81, theo hướng không
tăng học phí năm học 2023-2024. Nhưng nguồn tiền này như một tấm chăn hẹp, kéo
về bên này thì hụt bên kia. Học phí không tăng, người học sẽ được giảm gánh nặng,
nhưng các đại học sẽ xoay sở thế nào, khi đa dạng hóa nguồn thu đang là câu
chuyện đi vào ngõ cụt ở Việt Nam.
Cơ cấu nguồn thu của các đại học trên thế giới
rất đa dạng. Ngoài học phí đến từ các chương trình đào tạo chính quy, không
chính quy, hợp tác đào tạo, các đại học còn có nguồn thu nhập từ hoạt động
nghiên cứu khoa học (chính phủ cấp hoặc doanh nghiệp đặt hàng); từ khoản hiến tặng
của các cá nhân hay doanh nghiệp; từ việc khai thác cho thuê cơ sở vật chất,
cung cấp dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp.
Về mặt lý thuyết, các trường ở Việt Nam cũng
có cơ chế để năng động đa dạng hóa nguồn thu như vậy. Nhưng thực tế chưa khả
thi, vì sao?
Các trường đại học ở Việt Nam vẫn nặng về mục
tiêu đào tạo nhân lực, còn hoạt động nghiên cứu khoa học chỉ là thứ yếu. Đa số
giảng viên và giáo sư quá bận rộn với giảng dạy, chỉ một số rất ít nghiên cứu
khoa học, và họ làm việc trong điều kiện rất khó khăn. Do đó, không ngạc nhiên
khi những nghiên cứu khoa học như thế khó có thể chuyển giao thành sản phẩm và
đem lại thu nhập.
Phần lớn nghiên cứu khoa học từ các đại học
chưa chứng minh được khả năng ứng dụng hay giá trị thực tế đủ thuyết phục các mạnh
thường quân tài trợ. Nhiều nghiên cứu được thực hiện chỉ để "đối phó tình
thế" (như trong các cuộc đề bạt chức danh giáo sư và phó giáo sư) hơn là
nhắm đến giải quyết những vấn đề lớn mà xã hội quan tâm.
Các đại học ở phương Tây được hiến tặng khá
nhiều tiền. Ở Việt Nam, văn hóa hiến tặng cho các trường đại học chỉ mới hình
thành. Đây đó đã xuất hiện những nỗ lực quyên góp nhưng vẫn chưa phổ biến ở các
cá nhân cũng như doanh nghiệp, một phần vì thiếu cơ chế khuyến khích. Ở Mỹ và một
số quốc gia khác, cá nhân, doanh nghiệp quyên tiền cho các đại học sẽ được miễn
trừ thuế với khoản quyên góp.
Học phí không được phép tăng, các nguồn thu
khác nhỏ giọt và không đáng kể, ngân sách nhà nước quá thấp, các trường đại học
như bị bó chân, bó tay trước yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo.
Con số 9 % mà ngân sách Nhà nước đóng góp vào
nguồn thu của các trường đại học là quá thấp. Ở Trung Quốc, khoảng 50-55 % tổng
thu nhập của các đại học đến từ ngân sách công, chỉ khoảng 30 % từ học phí. Ở
Úc, chính phủ tài trợ cho mỗi đại học dựa vào số sinh viên thu nhận mỗi năm.
Năm 2020, gần 35 % nguồn thu của các đại học Úc là từ tài trợ của chính phủ, số
còn lại là học phí từ sinh viên nước ngoài (26 %), sinh viên nội địa (khoảng 17
%).
Cần nói thêm rằng ở Úc, thời tôi học đại học
(tức hơn 40 năm trước), các trường không lấy học phí vì chính phủ có chủ trương
mở cửa đại học cho con em thuộc giai cấp lao động. Mãi đến thập niên 1990, các
đại học mới dần dần lấy học phí, nhưng cũng rất thấp.
Hiện nay, chính sách tín dụng sinh viên ở Việt
Nam, thông qua Ngân hàng Chính sách Xã hội, thiếu hấp dẫn. Theo báo cáo của
Ngân hàng Thế giới, năm 2011 có 2,4 triệu người thụ hưởng, năm 2017 chỉ có
725.000 người và đến năm 2021 chỉ còn 37.000 người thụ hưởng chính sách này. Một
cách để giảm "khoảng cách đại học" giữa nông thôn và thành thị (hay
giữa người nghèo và người giàu) là điều chỉnh chính sách tín dụng bằng cách
tăng số tiền cho sinh viên nghèo vay và không lấy lời sau khi tốt nghiệp.
Có lý do chính đáng để Chính phủ Việt Nam tăng
ngân sách giáo dục. Một nước đang phát triển và trong thời bình nên xem đầu tư
cho giáo dục đại học có tầm quan trọng như đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Những người được đào tạo từ đại học là thành tố
rất quan trọng đóng góp vào phát triển kinh tế. Đầu tư vào con người luôn đem lại
lợi ích quốc gia lớn nhất.
NGUYỄN VĂN
TUẤN 10.08.2023
Publié par Thụy My RFI à 18:36
No comments:
Post a Comment