Lyndon
B. Johnson và tình trạng leo thang chiến tranh Việt Nam (1964-1967) (Phần 1)
Đỗ Kim Thêm
23/04/2023
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2023/04/1-43.jpg
Tổng thống Lyndon B. Johnson công du Việt Nam bên cạnh
Tướng William Westmoreland, Trung tướng Nguyễn văn Thiệu và Thiếu tướng Nguyễn
Cao Kỳ. Nguồn: Yoichi Okamoto
Bối cảnh
Lyndon Baines Johnson (1908-1973) xuất thân là
một nhà giáo ở Texas, tham gia đảng Dân chủ và lần lượt đảm nhận chức vụ dân biểu
quốc hội (1937- 1949), Thượng nghị sĩ (1949-1961) và Phó tổng thống từ năm
(1961-1963).
Khác với Kennedy, Johnson không toả sáng được
một phong cách trí thức hay quý tộc hay một tài năng nổi bật nào gây thu hút được
chính giới tại Washington. Ngay trong tiểu bang Texas, Johnson cũng không đứng
về thành phần bảo thủ nồng cốt của đảng Dân chủ. Vì tự nhận mang nhiều ảnh hưởng
của Franklin Delano Roosevelt (1881- 1945) trong chính sách New Deal, nên trước
công luận, ông luôn tự hào là một “New Dealer” trong thời đại mới.
Ngày 22 tháng 11 năm 1963 Tổng thống John F.
Kennedy bị mưu sát tại Dallas là một cơ hội bất ngờ cho Johnson trong việc
thăng tiến chính trị. Ngay trong ngày này, theo thủ tục khẩn cấp, Johnson tuyên
thệ nhậm chức tổng thống thứ 36 của Hoa Kỳ trên chuyến phi cơ Air Force One.
Sau khi nhậm chức tổng thống cho đến cuối năm
1964, ông quyết tâm tiếp tục thực hiện các chương trình cải cách xã hội của
Kennedy.
Những thành công đáng kể nhất của Johnson là
việc giảm thuế qua Johnson Tax Act và cải thiện được một phần nào tình trạng
phân biệt chủng tộc tại các trường học, nhà hàng, khách sạn và điểm giao thông
qua Civil Rights Act. Trong trận chiến chống nghèo đói (War on Poverty),
Johnson được Quốc hội tài trợ 1 tỷ đô la để trợ cấp cho các nhà trẻ và trường học
địa phương, đặc biệt giúp cho gia đình có lợi tức thấp; biện pháp này tạo thêm
thanh danh cho ông.
Ngược lại, chính sách về vấn đề chiến tranh Việt
Nam của hai bậc tiền nhiệm Kennedy và Eisenhower trở thành một di sản nặng nề
cho Johnson.
Đến cuối năm 1963, số lượng các cố vấn quân sự
Mỹ làm việc bên cạnh Quân lực VNCH đã tăng lên đến 16.000 người.
Cũng trong thời gian này, đường mòn Hồ Chí
Minh đã mở ra thành một trục lộ giao thông rộng lớn nên việc thâm nhập hàng
ngàn binh sĩ và vận tải quân cụ cho miền Nam được an toàn và dễ dàng. Nhờ thế,
Cộng sản Bắc Việt gia tăng hoạt động rõ rệt.
Các tướng lãnh tham gia đảo chánh năm 1963
xung đột nhau làm cho nội tình miền Nam bất đầu bất ổn. Tướng Dương văn Minh
(1916-2001), người lãnh đạo quân đội, đã chủ trương ngấm ngầm đàm phán với Mặt
trận GPMN. Khuynh hướng hiếu hoà này bị đa số tướng lãnh Việt và chính giới Mỹ
phát hiện và phản đối.
Tháng Giêng năm 1964, trong một cuộc đảo chánh
không đổ máu, mà báo giới miền Nam gọi là chỉnh lý, tướng Nguyễn Khánh
(1927-2013) lên nắm quyền và được Washington hỗ trợ đắc lực về chính trị và
quân sự.
Hai khuôn mặt Mỹ mới bắt đầu xuất hiện trên chính
trường Việt là Tướng Maxwell D. Taylor (1901- 1987), Đại sứ Mỹ tại Việt Nam và
Tướng William C. Westmorland (1914-2005), Chỉ huy trưởng Viện trợ Quân sự (Chef
of Military Assistance Command). Lực lượng cố vấn Mỹ tăng lên 23.000 người lúc
cuối năm 1964.
Nội tình của miền Nam không khả quan khi Tướng
Khánh tự quyền soạn thảo Hiến pháp mang danh Hiến chương Vũng Tàu ngày 16 tháng
8 năm 1964 và tự phong cùng lúc hai chức vụ Quốc trưởng và Thủ tướng. Dù được Đại
sứ Taylor hỗ trợ, nhưng các phong trào chống đối của sinh viên và Phật giáo gia
tăng.
Tình thế càng hỗn loạn là cơ hội cho CSBV đưa
binh sĩ thâm nhập miền Nam nhiều hơn. Mức độ gia tăng đáng ngại làm cho cơ quan
CIA phải lên tiếng báo động cho Đại sứ Taylor và Tổng thống Johnson biết là nên
cấp thời giải quyết. Nhưng Johnson chần chờ mà lý do là chính trường Mỹ đang bắt
đầu mùa tranh cử.
Barry Goldwater (1909-1998), đối thủ thuộc đảng
Cộng hoà, tiểu bang Arizona, là một thành phần chống cộng cực đoan, không phải
vì muốn trực diện chống Liên Xô với tinh thần đối kháng ý thức hệ mà quyết tâm
chiến thắng Cộng sản Việt Nam trên chiến trường và bất chấp mọi hậu quả, kể cả
việc sử dụng vũ khí nguyên tử.
Nhận ra khuyết điểm này của Goldwater, trước cử
tri Johnson tỏ ra mềm dẻo khi đề ra một chính sách có nhiều ý thức trách nhiệm
hơn. Ông hứa hẹn kiên quyết chống cộng, nhưng không thể phản ứng thái quá và vụng
về như trong vụ Vịnh Bắc bộ xảy ra ngày 10 tháng 8 năm 1964 và cũng không bằng
lòng việc gởi con em đến Việt Nam để chiến đấu, nơi mà giới trẻ địa phương phải
tự lo bảo vệ cho chính mình.
Kết quả là ngày 3 tháng 11, Johnson thắng cử với
tỷ lệ 61% hay 43, 1 triệu phiếu cử tri, trong khi Goldwater chỉ đạt được 38,5 %
hay 27, 2 triệu phiếu cử tri.
.
Diễn biến
Ngay sau khi nhậm chức tổng thống, Johnson nhận
thức rằng sẽ còn gặp nhiều trở ngại vì cục diện chiến tranh đang leo thang và
chương trình cải cách xã hội (Great Society) khó được tiếp tục.
Nhìn chung, quan điểm của Johnson cũng giống
như các bậc tiền nhiệm, chính sách ngăn chặn của Harry S. Truman (1884-1972) và
thuyết Domino của Dwight D. Eisenhower (1890-1969) có giá trị thuyết phục nên cần
theo đuổi. Khi CSBV xâm lăng và làm miền Nam sụp đổ, thì các nước trong vùng
Đông Nam Á và Mỹ sẽ lâm nguy. Ngoại trưởng Dean Rusk (1909- 1994) và Bộ trưởng
Quốc phòng Robert McNamara (1918-2009) cũng chia sẻ quan điểm này và ủng hộ
chính sách phòng chống của Johnson.
Nhưng Johnson phải làm gì? Các giới am tường
tình thế có nhiều đề xuất khác nhau. Theo Tướng Không quân Curtis LeMay
(1906-1990), một giải pháp cực đoan nhất để sớm tận diệt CSBV là không quân Mỹ
ném bom toàn diện và tối đa để đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá.
Một trong những ý kiến phản chiến quan trọng
khác là Georg Ball (1909-1994), Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Chứng kiến thảm bại của
Pháp trong chiến tranh Đông Dương khi là nhân viên Toà Đại sứ Mỹ tại Paris,
Ball cảnh báo Mỹ cần tránh các hậu quả mà Pháp đã gặp phải.
Trong một giác thư gởi cho Ngoại trưởng Rusk,
Bộ truởng Quốc phòng McNamara và Cố vấn An ninh McGeorg Bundy (1919-1996), Ball
cho rằng việc không kích Bắc Việt sẽ không giúp cho Miền Nam mạnh hơn hay làm
cho Mặt trận GPMN yếu hơn, nhưng chắc chắn một điều là tình hình sẽ nghiêm trọng
vì lòng căm thù Mỹ càng lên cao độ.
Tác hại ngoại giao khó lường đoán là uy tín của
Mỹ đối với Đồng minh cũng vì thế sẽ suy giảm.
Hy vọng xây dựng cho VNCH thành một nước dân
chủ, tự do và thịnh vượng, mà Eisenhower và Kennedy dày công theo đuổi, cũng chỉ
thành vô vọng. Cho đến na,y tất cả sự sống còn của miền Nam lệ thuộc hoàn toàn
vào viện trợ Mỹ.
Do đó, nếu để cho binh sĩ Mỹ càng tiến sâu vào
rừng của Việt Nam để chiến đấu, thì chính giới Mỹ càng mất lối thoát trên chính
trường. Diễn đạt theo lối người Việt, nghĩa là Mỹ đã leo lưng cọp và không còn
biết tìm nơi nào an toàn để xuống lưng cọp. Để giữ thể diện, theo Ball, Mỹ phải
triệt thoái là phương sách thích hợp.
Johnson phủ nhận cả hai giải pháp không kích
toàn diện của LeMay và triệt thoái toàn bộ của Ball, vì không tin sẽ chấm dứt
chiến cuộc, mà dung hoà bằng cách chia chiến lược tấn công CSBV qua hai giai đoạn.
Giai đoạn đầu là không kích trên các đoạn đường
tiếp vận trong lãnh thổ Lào khoảng một tháng. Tùy theo mức độ phản ứng của
CSBV, giai đoạn hai sẽ ném bom trên lãnh thổ Bắc Việt, khoảng sáu tháng và khi
cần thiết sẽ bổ sung bằng cách gài mìn phong toả các hải cảng và đường vận chuyển
biển. Các sự kết hợp này sẽ kết thúc chỉ khi nào tình hình miền Nam thực sự ổn
định.
Tuy nhiên, cho đến tháng 12 năm 1964, Johnson
vẫn chưa chính thức ra lệnh cho việc không kích trong giai đoạn hai. Thái độ chần
chờ này gây cho Bộ Tư lệnh Liên quân nhiều bất bình.
Khác với ý kiến của các cố vấn và tướng lãnh,
Johnson tỏ ra không kiên quyết đối đầu quân sự với Hà Nội. Lý do chủ yếu là nếu
leo thang chiến tranh, phải gia tăng kinh phí quốc phòng và cắt giảm các tài trợ
cho chương trình Great Sociey, một tình trạng tiến thoái lưỡng nan mà Johnson cố
tránh.
Johnson phải làm gì? Chờ đợi trong vô vọng hoặc
theo chủ trương của Ball? Cho dù theo quyết định nào đi nữa, thì Johnson cũng sẽ
phải chấp nhận các chỉ trích của các cố vấn và công luận việc VNCH và Đông Nam
Á sẽ lâm nguy, trong khi đang mơ ước ưu tiên thực hiện dự án Great Society.
Thay vào đó, cũng trong tiến trình này, Johnson cố tìm cách gây ảnh hưởng đến
phía VNCH, một khó khăn mà các vị tổng thống tiền nhiệm đã không thực hiện được.
Cụ thể, Johnson đòi hỏi chính phủ VNCH phải cải
cách thể chế chính trị, tạo nhiều điều kiện dân chủ hơn. Nhờ thế, may ra, miền
Nam tạo được một chính quyền ổn định và đoàn kết hơn, làm cho công cuộc chiến đấu
chống cộng có hiệu năng hơn. Để khuyến khích, Johnson chấp thuận cho Tướng
Khánh tăng thêm 100.000 quân, đưa quân số Quân lực VNCH lên đến 660.000 quân nhằm
tăng cường hoả lực chiến đấu.
Dù thoả thuận tăng quân, nhưng giới lãnh đạo
VNCH không quan tâm nhiều đến các cải cách chính trị như Mỹ đòi hỏi. Khi mối
quan hệ Mỹ-Việt lệ thuộc nhau càng sâu đậm thì chuyển biến càng phức tạp, cho
dù nhìn chung, phía Mỹ luôn muốn gia tăng các hỗ trợ cho Việt Nam.
Tình hình an ninh của miền Nam biến chuyển tệ
hại càng làm cho chính giới Mỹ lo âu nhiều hơn. Điển hình là trong đêm Giáng
sinh năm 1964, Đội Biệt động thành đã tấn công khách sạn Brink ngay trung tâm
thành phố, gây tử thương cho nhiều cố vấn Mỹ. Mấy ngày sau, tại Bình Giã, một địa
điểm cách Sài Gòn 70 cây số về hướng Tây Nam, một trận đánh cấp tiểu đoàn diễn
ra khốc liệt với kết quả 445 binh sĩ VNCH và 16 cố vấn Mỹ thương vong và phía
Việt Cộng mất 132 sinh mạng.
Trước các thảm bại liên tiếp, chính giới Mỹ
cho rằng không thể chờ đợi cho đến khi nào mà chính phủ VNCH được ổn định, trước
mắt phải tiến hành việc không kích Bắc Việt, vì sẽ mang kết quả thiết thực: Khi
CSBV không thể tiếp tục thâm nhập miền Nam, thì MTGPMN không nhận được yểm trợ,
đương nhiên phải suy yếu.
Điểm quan trọng nhất trong chiến lược này là Mỹ
không muốn có một chiến thắng cấp thời và toàn diện mà ưu tiên nhằm ngăn trở
không để cho VNCH sụp đổ. McGeorg Bundy, Cố vấn An ninh, bi quan khi tiên đoán
là miền Nam không sống quá một năm trong khi biện pháp ném bom bắt đầu đưa
Johnson đi vào một cuộc phiêu lưu mới: Mỹ hoá cuộc chiến Việt Nam.
Nhưng khi Johnson chưa kịp ra tay, thì MTGPMN
lại phản ứng đầu tiên. Ngày 7 tháng 2 năm 1965 Việt Cộng đột kích một căn cứ
không quân Mỹ tại Pleiku làm cho 8 cố vấn quân sự tử thương và 125 bị thương.
Johnson ra lệnh phục thù mang tên chiến dịch Flamming Dart, 132 phi cơ của Thuỷ
quân Lục chiến ném bom các căn cứ quân sự tại miền Bắc.
Ngày 10 tháng 2 năm 1965, MTGPMN tiếp tục tấn
công một căn cứ quân sự Mỹ làm cho 20 binh sĩ Mỹ tử thương. Để phản ứng,
Johnson ra tiếp một chiến dịch mới mang tên Rolling Thunder nhằm không kích miền
Bắc vô thời hạn.
Điểm tác hại cho Johnson trong lúc này là
không thông báo cho dân chúng biết đầy đủ về các diễn biến của tình hình, mà chỉ
công bố là để trả thù trước các cuộc tấn công của Hà Nội, đặc biệt nhất là
không đề cập đến yếu tố ném bom vô thời hạn.
Đến cuối tháng 2 năm 1965, cùng lúc với các viện
trợ quân sự gia tăng, số lượng các cố vấn quân sự Mỹ đã lên đến 23300. Dù tình
hình an ninh xấu đi, buộc QLVNCH lâm vào thế thủ để bảo vệ các cơ sở hạ tầng,
nhưng chiến dịch Rolling Thunder hứa hẹn mang lại nhiều sinh khí mới cho dân
chúng miền Nam.
Từ tháng 12 năm 1964, Tướng Khánh liên lạc với
MTGPMN và tìm một giải pháp đàm phán. Các tướng lãnh khác phản ứng mạnh và kết
thúc bằng một cuộc đảo chính không đổ máu. Do sự thu xếp của Đại sứ Taylor, miền
Nam thực sự có chuyển biến mới khi một chánh quyền dân sự thành hình vào ngày
18 tháng 2 năm 1965 và Tướng Khánh chấp thuận rời khỏi Việt Nam ngày 24 tháng 2
năm 1965 với chức danh Đại sứ lưu động.
Dù mang danh là Uỷ ban Hành pháp Trung ương và
Uỷ Ban Lãnh đạo Quốc gia, nhưng tất cả thành phần lãnh đạo đều là các tướng
lãnh: Nguyễn Cao Kỳ (1930-2011) và Nguyễn Văn Thiệu (1923-2001). Chủ trương của
chính quyền mới là kiên quyết không thoả hiệp với MTGPMN và hợp tác chặt chẽ với
Mỹ để đưa cuộc chiến đến thành công.
Lại một lần nữa, các cuộc tấn công dồn dập của
MTGPMN tại các căn cứ không quân Biên Hoà và Pleiku chứng tỏ khả năng phòng ngự
của hai lực lượng Mỹ-Việt không tương xứng.
Tình thế đổi thay khiến cho Tướng Westmoreland
phải khẩn cấp lên tiếng đòi gia tăng binh lực để bảo vệ căn cứ Đà Nẵng. Yêu cầu
này bị Đại sứ Taylor phản ứng kịch liệt với lý do là am tường tình thế Việt Nam
toàn diện hơn Westmoreland, người chỉ chuyên về binh pháp.
Đại sứ Taylor lập luận rằng binh sĩ bộ binh Mỹ,
cho dù trang bị vũ khí hiện đại và tinh thần chiến đấu cao độ, vẫn không phải
là đối thủ tương xứng với các du kích quân tại khu vực rừng nhiệt đới. Kinh
nghiệm Điện Biên Phủ cho thấy Pháp khi xưa đã thất bại, thì nay Mỹ không thể
khá hơn. Điểm chủ yếu là binh sĩ Mỹ trong khi cận chiến không thể phân biệt được
nông dân và Việt cộng.
Các ý kiến của Taylor không thuyết phục được
Johnson. Do đó, ngày 8 tháng 3 năm 1965, Mỹ quyết định đưa hai tiểu đoàn Thuỷ
quân Lục chiến được trang bị với thiết giáp và pháo binh đến Đà Nẳng.
Được ưu thế tại Washington, Tướng Westmoreland
càng đòi gởi quân nhiều và nhanh hơn. Đến cuối tháng 4, số lượng bộ binh Mỹ đổ
bộ là 40.000. Theo nguyên tắc, các đơn vị này sẽ lập ra căn cứ quân sự và tổ chức
các cuộc hành quân trong phạm vi 50 dặm chung quanh doanh trại.
Theo một tự sự sau này của Bùi Diễm
(1923-2021), cựu Đại sứ VNCH tại Mỹ, cho biết, trong tiến trình quyết định gởi
quân đến Đà Nẵng, Mỹ không tham khảo ý kiến của chính phủ VNCH; sau đó, để hợp
pháp hoá việc hợp tác quân sự Mỹ-Việt, VNCH mới ra một tuyên bố công nhận việc
đóng quân. Cho đến nay, không có một tài liệu chính thức nào xác nhận tham vọng
xâm chiếm lãnh thổ hay thu tóm quyền lợi kinh tế của Mỹ như thực dân Pháp.
(Còn tiếp)
***
Lyndon
B. Johnson và tình trạng leo thang chiến tranh Việt Nam (1964-1967) (Phần 2)
Đỗ Kim Thêm
23/04/2023
Trong khi các lực lượng bộ binh Mỹ chưa ghi nhận
thành tích chiến thắng nào, thì Mặt trận GPMN liên tục chiếm được nhiều
vùng tại nông thôn và chính phủ VNCH cho biết là chỉ còn khả năng kiểm soát tại
Sài Gòn và nhiều thành phố lớn khác.
Gây lo âu cho Johnson trong giai đoạn này
không phải chỉ có tiền tuyến Việt mà còn hậu phương Mỹ. Mike Mansfield và Goerg
McGovern, hai tiếng nói quan trọng thuộc đảng Dân chủ, đòi hỏi phải tìm một giải
pháp đàm phán.
Ngay cả Tổng thư Ký Liên Hiệp Quốc U Thant và
Thủ tướng Canada Lester Pearson cũng lên tiếng Mỹ phải giải thích mục tiêu theo
đuổi chiến tranh, kết thúc không chiến và kêu gọi đàm phán.
Giới truyền thông Washington trước đây nhiệt
tình ủng hộ cho Johnson, nay cũng chuyển hướng khi số lượng thương vong của
binh sĩ Mỹ lên cao. New York Times, Boston Globe và Newsweeks đồng loạt nêu việc
xem lại ý nghĩa tham chiến, nhưng không đòi hỏi triệt để là Mỹ phải rút quân.
Các phong trào phản chiến lần lượt ra đời cùng
với lập luận là việc tham chiến không phản ảnh được ý nghĩa giá trị chiến lược
hay dân chủ cho nước Mỹ.
Để đáp ứng tình thế ngày càng sôi bỏng,
trong một bài diễn văn đọc tại Đại học Johns Hopkins, Baltimore ngày 7 tháng 4,
Johnson thông báo sẳn sàng thương thuyết với Hà Nội và đề ra một phương thức viện
trợ kinh tế theo mô hình Great Society với ngân khoản 1 tỷ đô la cho các nước
Đông Nam Á. Đến tháng 5, để bày tỏ thiện chí, Johnson ra lệnh ngưng oanh kích
trong năm ngày để yêu cầu CSBV đàm phán.
Dù lòng thành tín muốn kết thúc chiến cuộc
không thể nghi ngờ, nhưng thực ra, Johnson không có một chiến lược cụ thể cho
tiến trình hay một tương nhượng cho đối phương. Giống như các bậc tiền nhiệm,
Johnson chỉ đề cao việc tôn trọng quyền toàn vẹn lãnh thổ của VNCH và không chấp
nhận sự hiện diện của MTGPMN tại miền Nam.
Ngược lại với mọi dự đoán của Johnson, tháng 5
năm 1965, để đáp trả, CSBV kiên quyết không chấp nhận hoà đàm, mà lý do chính
là đang nhận được nhiều viện trợ quân sự của Liên Xô và Trung Quốc, vì tin là
chiến thắng quân sự đã gần kề, nên cũng bác bỏ áp lực đàm phán của Liên Xô.
Để gây tiếng vang với công luận, Hà Nội cũng đề
nghị bốn điểm đối nghịch: Mỹ rút quân khỏi miền Nam không điều kiện, chấm dứt
oanh tạc miền Bắc, thành lập một chính phủ liên hiệp tại miền Nam với các thành
phần yêu chuộng hoà bình và thống nhất đất nước.
Thái độ hiếu hoà của Johnson làm cho giới phản
chiến dịu giọng, và đầu tháng 5, Quốc hội thuận chi 700 triệu đô la để yểm trợ
cho các cuộc hành quân tại miền Nam.
Hầu hết chính giới tại Washington như Wheeler,
McNamara, Rostow, Rush, Westmoreland và các tướng lãnh tại Ngũ Giác Đài cùng đi
đến một nhận định chung là, đã đến lúc tình thế không thể đảo ngược; Mỹ phải
quyết định táo bạo bằng cách mở rộng không kích, tăng cường quân số bộ binh và
bổ sung nhiều chiến lược khác, cho dù phải chấp nhận nhiều hậu quả nghiêm trọng
hơn.
Chỉ có Taylor đành im lặng và tìm cách thích ứng
trong khi Ball tiếp tục cảnh cáo thiệt hại của Mỹ càng trở nên khó lường đoán.
Tháng 6 năm 1965, việc leo thang thực sự bắt đầu
khi Johnson ra lệnh gởi thêm 50.000 quân. Cuối năm 1965, quân số Mỹ lên đến
184.000; cuối năm 1967 là 485.000.
Việc tăng quân liên tục làm cho công luận và
Quốc hội phản ứng mạnh. Vô số các khuyến nghị của chính giới và truyền thông
hay công luận đều bị Johnson bác bỏ. Điển hình là Henry Cabot Lodge (1902-1985)
đã lên tiếng: “Tại sao gởi một số lượng lớn quân đến Việt Nam mà không một lời
giải thích?”
Trong năm 1967, cục diện chiến trường thay đổi
khi tương quan lực lượng của hai phía không còn cân xứng, nghiêng hẳn về phía Mỹ
và VNCH.
Ngoài hơn nửa triệu quân Mỹ đang hiện diện,
QLVNCH có trên 660.000 quân, miền Nam còn có 50.000 binh sĩ Nam Hàn và một số
lượng của các quốc gia thân hữu khác là Philippines (2061), Úc (50.000) và Tân
Tây Lan (356) hợp tác.
Có mặt trên chiến trường miền Nam ước khoảng
trên 200.000 binh sĩ miền Bắc và 80.000 quân MTGPMN. Nhưng dị biệt về binh pháp
là vấn đề chính.
CSBV chủ yếu vẫn dựa vào du kích chiến của Mao
Trạch Đông và lấy nông dân tại nông thôn làm cơ sở. Thực ra, CSBV cũng không thể
thay đổi chiến lược này trong toàn diện, trong khi các tỉnh đồng bằng miền Tây
Nam bộ có nhiều thuận lợi về địa hình và nhân sự; ngược lại, các tỉnh miền Đông
và ven biển miền Trung là không thích hợp.
Dù thất thế về quân số và hoả lực, nhưng tinh
thần chiến đấu của cán binh Cộng sản lên cao độ với nhiều lý do.
Nhìn chung, bất chấp số lượng thương vong rất
lớn là sức mạnh tinh thần. CSBV tin là nhiều người Việt sẽ chiến đấu kiên cường
hơn người Mỹ và sẳn sàng chết nhiều hơn người Mỹ.
Hai “trận chiến long trời lở đất” Điện Biên Phủ
và Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975 là bằng chứng không ai quan tâm các con số
tổn thất.
Tướng Westmoreland từng nhận định, thành công
trong trận Điện Biên Phủ không phải là một bài học chiến lược quý giá để cho
các tướng lãnh các nước phương Tây noi theo, kể cả ông cũng cho việc sát quân
là không phù hợp. Cho đến nay, chưa có nơi nào trên thế giới áp dụng kinh
nghiệm này.
Trong lịch sử chiến tranh thế giới, chưa có tổn
thất của phe thắng trận nào mà nặng nề và thảm khốc hơn phe thua trận như tại
Việt Nam (1 triệu 1 cho CSBV so với 330 ngàn của VNCH).
Không nêu cao vai trò đấu tranh giai cấp để bảo
vệ quyền lợi công nhân như các xã hội công nghiệp phương Tây; ngược lại, Bắc Việt
tuyên truyền rằng Mỹ xâm lược tàn bạo, làm cho nhân dân miền Nam nghèo đói tận
cùng và đang rên xiết, và trông chờ Giải phóng quân miền Bắc đến giải cứu. Lập
luận này trở thành dụng cụ tuyên truyền hữu hiệu; tấm gương hào hùng chống thực
dân Pháp là một chứng minh lịch sử, đấu tranh giải phóng dân tộc bắt đầu
có lý do để biện minh, nhất là khi không quân Mỹ ném bom gây ra hình ảnh bi
thương cho đất nước.
Hơn thế, lập luận chống Mỹ xâm lăng có thể
thuyết phục được cả các thành phần trước đây thuộc loại lưng chừng: nông dân và
một phần thị dân như sinh viên và trí thức, nhất là tự do đấu tranh ngoại vận của
thành phần “ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản”, lên tiếng hỗ trợ gây được nhiều
tiếng vang nhờ có các phong trào phản chiến tại phương Tây tiếp sức.
Các tài liệu về sau hé lộ rằng, có khoảng
310.000 quân Trung Quốc lo bảo vệ miền Bắc, nhưng không có một cuộc thảo luận
công khai hay hình thức chống đối nào trong chính giới hay dân chúng về sự hiện
diện này, vì CSBV kiểm soát tuyệt đối lĩnh vực truyền thông ngoại vận và quốc nội,
đó một lợi thế của miền Bắc; trong khi miền Nam không có và còn thất bại nặng nề
trong đấu tranh phát huy chính nghĩa quốc gia, từ nông thôn cho đến hải ngoại,
khi so với hơn 485.000 lính Mỹ đồn trú tại miền Nam.
Đối sách của Mỹ là một thất bại thảm hại mà việc
sử dụng vũ khí hoá học là điển hình. Phá huỷ các căn cứ quân sự của MTGPMN bằng
bom Napalm và hoá học cũng có nghĩa là hủy diệt môi trường sống cho nông dân.
Nhiều khu vực rộng lớn được Mỹ quy định thành
khu oanh kích tự do (free fire zones) trong khi một số khu rừng rậm tại một
số tỉnh được chính quyền xem là Indian country, nghĩa là trong các cuộc hành
quân truy tìm và tận diệt (search and destroy) các binh sĩ Mỹ và VNCH có quyền
bắn tự do những gì còn lay động.
Các binh pháp của Mỹ đã thành công trong Đệ nhị
Thế chiến và tại Triều Tiên được Tướng Westmoreland đem ra áp dụng đều không kết
quả như mong đợi mà sự khác biệt ở đây là phân công Mỹ-Việt:
Sau khi binh sĩ Mỹ truy lùng, diệt dịch và tái
chiếm, QLVNCH đảm trách công việc bình định nông thôn. Đại sứ Taylor đã cảnh
báo là các binh sĩ VNCH không có khả năng đấu tranh chính trị để gây thiện cảm
với nông dân trong lâu dài. Đó là nhiệm vụ mà về sau lực lượng Cán bộ Xây dựng
Nông thôn thành hình và đảm trách.
Cuộc chiến không còn để thu phục nhân tâm, mà
thành tích chiến thắng chỉ dựa trên việc đếm xác đối phương, một thất bại về
tâm lý chiến, nhưng Mỹ và VNCH cần đến các thống kê để phô trương trước truyền
thông và công luận hơn bao giờ hết.
.
Hậu quả
Việc Mỹ hoá chiến tranh gây nhiều bất mãn cho
chính giới. Cuối năm 1965, McNamara cho là chiến thắng quân sự khó khả
thi và phải tìm cách đàm phán. Năm 1967, ông kiên quyết phải chấm dứt không
kích để tránh các nguy cơ lan rộng. Mâu thuẩn với Johnson và Westmoreland không
thể hoà giải; cuối cùng, đến tháng 12 năm 1967, ông chấp nhận chức vụ mới là
lãnh đạo Ngân hàng Thế giới và Clark M. Clifford thay ông làm Bộ trưởng Quốc
phòng. Cũng trong tâm trạng này, George Ball và McGeorg Bundy rời khỏi nội các
Johnson.
Ngoài khó khăn về nhân sự, Johnson cũng cố tìm
cách để thương thuyết với Hà Nội, không phải chỉ trong các cuộc vận động chính
thức, mà còn qua các sáng kiến tư nhân của các nhà ngoại giao tên tuổi từ các
nước Anh, Pháp, Ý, Ba Lan và Liên Xô. Tất cả đều không đem lại kết quả vì bị Hà
Nội cự tuyệt.
Nhìn chung, các chiến thuật đàm phán trong ngắn
hạn của Hà Nội cũng như Mỹ không khác nhau.
Hà Nội, dù là ngỏ ý đàm phán, nhưng không có
thái độ nghiêm chỉnh, mục tiêu là kéo dài cho đến khi nào Hoa Kỳ kiệt sức hoặc
do các phản đối của dân chúng Mỹ đến độ phải quay lưng từ bỏ VNCH.
Ngoài ra, Hà Nội cũng muốn lo giữ thể diện là
chính. Kinh nghiệm lịch sử đàm phán lại có một lý do khác: hai lần thất bại
thương thuyết, một trong năm 1946, lúc cuối Đệ nhất Thế chiến, và một trong năm
1954, lúc cuối chiến tranh Đông Dương. Đó là lý do tại sao Hà Nội không muốn thất
bại lần thứ ba.
Lý do chọn giải pháp quân sự ưu tiên vì
viện trợ còn dồi dào và vẫn chờ tin vui chiến trường.
Còn Mỹ? Thái độ của Mỹ cũng không chân thành
hơn. Trong cả hai trận tuyến đàm phán và chiến trường, tình hình chung là bế tắc.
Đến cuối tháng 9 năm 1967, Johnson quyết định
chuyển hướng sang phương thức mới mang tên “San Antonio”, nghĩa là, Mỹ đề nghị
ngưng ném bom và chấp nhận vai trò của MTGPMN trong việc tái thiết hậu chiến, nếu
Hà Nội nghiêm chỉnh thương thuyết.
Thực ra, Mỹ ước tính rằng sẽ đánh bại MTGPMN cả
về chính trị lẫn quân sự. Dù tôn trọng VNCH là một chính phủ độc lập về hình thức;
Mỹ tìm cách để cho VNCH càng lệ thuộc nhiều hơn về mọi mặt.
Còn hai trận tuyến tại hậu phương Mỹ mà Johnson
phải lo đối phó là Quốc Hội, truyền thông và công luận phản chiến.
Trước Quốc hội, Johnson phải tìm ngân sách bổ
sung để tài trợ cho cuộc chiến được kéo dài. Trong năm 1967, kinh phí quốc
phòng đã lên đến đỉnh là 20,3 tỷ đô la, tương đương với công chi cho chương
trình Great Society.
Tình trạng khiếm hụt ngân sách khoảng 28 tỷ đô
la bắt buộc Johnson phải lo tăng thuế và kiểm soát công chi nghiêm nhặt hơn.
Johnson phải lo đương đầu là cán cân thanh toán bất quân bình, đồng đô la mất
giá và lãi xuất tăng nhanh.
Cuối cùng, Johnson đạt được giải pháp thoả hiệp
với Quốc hội, đồng ý tăng thuế và giảm chi cho chương trình Great Society khoảng
6 tỷ đô la.
.
Kết luận
Sau khi nhậm chức, Johnson tự hào là “bảo đảm
vị trí của mình trong lịch sử Hoa Kỳ với tư cách là người thừa kế hàng đầu của
Roosevelt“.
Trong chính sách đối nội, với Luật về Dân Quyền
năm 1964 và Đạo luật Quyền Bầu cử năm 1965, Johnson cải thiện được những sai lầm
trong di sản của Roosevelt.
Ngược lại, các biện pháp để tạo ra một nhà nước
lo phúc lợi cho dân chúng trong hoàn cảnh tham chiến tại Việt Nam là nghịch lý.
Johnson cũng gặp thất bại qua biện pháp Medicare. Kết quả là cơ sở vững chắc của
đảng Dân chủ tại miền Nam chạy theo đảng Cộng hòa.
Trong chính sách đối ngoại, Johnson quyết tâm
tiếp nối truyền thống của Roosevelt khi cho cả hai tình hình thế giới trước đây
và Việt Nam hiện nay là tương đồng. Khi Roosevelt lo đối đầu với Hitler thì phản
ứng của Johnson trong việc CSBV xâm lăng miền Nam là khác hẳn. Thực ra, nhận định
chung của Johnson là sai lầm: Việt Nam khác với Đức và đã kết thúc trong bi kịch
khác.
Đến cuối năm 1967, chiến tranh Việt Nam còn
kéo dài triền miên trong khi các giải pháp hoàn toàn lâm vào cảnh bế tắc. Chuyển
biến quan trọng nhất là mặt trận truyền thông và công luận phản chiến đã không
còn ủng hộ cho Mỹ tiếp tục tham chiến và việc kêu gọi rút quân trở nên khẩn thiết
hơn.
Do hoạt động của các phong trào phản chiến lên
cao điểm, năm 1968 trở thành một năm kinh hoàng cho Johnson khi mọi sinh hoạt
công quyền bị tê liệt và khi CSBV đồng loạt tiến hành cuộc chiến Tết Mậu Thân
toàn dân miền Nam phải sống trong đau thương.
Cả hai tác động chiến lược này đã đưa đến việc
Mỹ ký kết Hiệp định Paris 1973 và sự sụp đổ của VNCH vào năm 1975.
Johnson ra đi vào ngày 22 tháng 1 năm 1973 nên
không chứng kiến hồi kết cuộc của bi kịch Việt Nam.
______
Các diễn tiến
từ năm 1968 xin xem tiếp các bài:
Công luận và truyền thông phản chiến Mỹ làm miền
Nam sụp đổ?
Richard Nixon, Henry Kissinger và Sự Sụp Đổ Của Miền Nam
No comments:
Post a Comment