Lại
chuyện tôn sùng lãnh tụ - Bên lề bản án của Nguyễn Lân Thắng
Câu chuyện om sòm bên lề bản án nặng nề dành
cho ông Nguyễn Lân Thắng khi ông võ sư/nhà văn Đoàn Bảo Châu mang nhân vật Hồ
Chí Minh vào bài viết của ông. Một tiếng nói phản đối chính quyền vừa bị cầm tù
nhưng vẫn không thoát ra khỏi cái bóng dáng khổng lồ của vị lãnh tụ đang bao
trùm trong mọi ngóc ngách của xã hội.
Ai ca tụng hay tôn sùng và tôn thờ một lãnh tụ
như ông Hồ Chí Minh thì cứ việc. Suy cho cùng, đó là quyền của cá nhân họ.
Tuy nhiên, những người này cũng nên chấp nhận
một điều rằng có không ít người không tôn trọng hay khâm phục vị lãnh tụ cộng sản
trên. Họ có lý do của họ và đó mới chính là khái niệm dân chủ ngay cả trong nhận
thức về những sự kiện hay nhân vật lịch sử.
Trên phương diện cá nhân, tôi không bắt những
người khác phải có cùng suy nghĩ như tôi về con người và vai trò của ông Hồ
trong một giai đoạn lịch sử đau thương của dân tộc. Tuy nhiên, thời buổi toàn cầu
và thông tin đa chiều, sự thật là điều không mấy khó khăn để tìm hiểu. Chính vì
vậy, tôi chỉ cảm thấy tiếc cho không ít người, dẫu có khả năng hiểu biết và thừa
kiến thức nhưng vẫn không ngớt lời tụng ca ông Hồ. Mọi việc ông làm, mặc định đều
đúng và không thể nào phản biện hay chỉ trích. Họ trung thành tuyệt đối với
ông. Học trò của ông có thể sai, chứ ông không thể nào bị “xét lại” hay đánh
giá lại. Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn bất diệt…
Cái hay của người cộng sản là đã thành công
trong việc tẩy não để “lập trình” một cách tinh vi những tuyên truyền và chủ
nghĩa suy tôn lãnh tụ trong đầu óc không ít đồng bào. Đâu đó trong tiềm thức của
người dân, ông Hồ gắn liền với mọi sự cao quí, hy sinh cao cả và nhất là sứ mệnh
vĩ đại của dân tộc này!
Ông Hồ là một nhân vật lịch sử và chỉ có một
Việt Nam thực sự dân chủ thì mới có thể đánh giá một cách trung thực và khách
quan vai trò của ông đối với lịch sử dân tộc.
Trong lịch sử nhân loại
tiến bộ, chỉ có các quốc gia độc tài mới cố tình áp đặt sự tôn thờ, suy tôn và
thần thánh hoá lãnh tụ. Đó là sức cản quan trọng cản trở sự phản biện, chất vấn
lịch sử cần thiết của một công dân trong một quốc gia dân chủ.
Đã qua rồi cái thời kỳ mà nhà nhà, người người
phải câm miệng, không dám đá động gì đến các vị lãnh tụ cộng sản Việt Nam.
Từ chối sự tuyên truyền, suy tôn và tôn thờ
ông Hồ một cách máy móc, suy cho cùng, đó cũng chính là quyền công dân cơ bản
nhất cần phải được tôn trọng.
Và càng không thể hăm doạ, khủng bố, đàn áp
hay bỏ tù những ai không cùng suy nghĩ, chê bai hay thậm chí chế giễu những “thần
tượng” của một thể chế chính trị.
.
https://dienkhanh.khanhhoa.gov.vn/Resources/Images/Subdomain/HomePage/HU/3122c030e63fab0dimages.jpg
Ảnh ông Hồ
đăng trên trang web chính quyền tỉnh Khánh Hòa
.
===================================================
18
Tháng 5, 2015 · ·
Về huyền thoại HỒ CHÍ MINH (Nguyễn Gia Kiểng)
"...Nếu không có Hồ Chí Minh và đảng cộng sản thì Việt Nam sẽ khá
hơn hay sẽ kém hơn hiện nay?" thì chắc chắn tuyệt đại đa số người Việt sẽ
có cùng một câu trả lời...”
Chân dung Hồ
Chí Minh
LTS : Nhân ngày 19/5, cái gọi là ngày sinh nhật của ông Hồ Chí Minh do đảng
CSVN sáng chế, chúng tôi xin đăng lại bài dưới đây dù đã đăng trên Thông Luận
cách đây 21 năm để một lần nữa nhận diện một trong những huyền thoại nền tảng của
đảng CSVN.
*
Đài "Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại" phỏng vấn tôi về ông Hồ Chí Minh
nhân ngày sinh thứ 104 của ông. Sau nhiều tài liệu của các nhà nghiên cứu, đài
này muốn cho thính giả nghe quan điểm của một người hoạt động chính trị về một
nhân vật chính trị. Câu hỏi đầu tiên của ký giả Hồng Phúc làm tôi bối rối :
"Xin ông cho thính giả biết những nét chính về nhân vật Hồ Chí Minh".
Nét đậm đầu tiên của ông
Hồ Chí Minh là ông là một người lý lịch không rõ rệt.
Ngay cả ngày sinh của ông, 19/5/1890, mà Đảng Cộng Sản Việt Nam dùng làm một
ngày lễ, cũng không có gì chắc chắn. Ở những dịp khác nhau, chính ông Hồ Chí
Minh đã khai những ngày sinh khác nhau, mặc dầu không có nhu cầu phải giấu giếm.
Thí dụ như khi nộp đơn xin học Trường Thuộc Địa Pháp, ông khai là sinh năm
1892; sau đó ít lâu, trong hồ sơ gia nhập Hội Tam Điểm (Free Mason) ông khai
ngày sinh là 15/2/1895. Cho đến một ngày rất gần đây mọi người vẫn đinh ninh rằng
ông họ Nguyễn, tên Nguyễn Sinh Côn, sau đổi thành Nguyễn Tất Thành, con ông phó
bảng Nguyễn Sinh Huy. Thế rồi sử gia Trần Quốc Vượng đưa ra một giả thuyết mới
theo đó ông thực sự họ Hồ, cháu nội ông Hồ Sĩ Tạo, và đã chỉ mang họ Nguyễn sau
một thảm kịch gia đình: bà nội ông đã có thai với ông Hồ Sĩ Tạo dù ông này đã
có vợ con, gia đình bà đã phải đem gả bà cho một ông đồ già họ Nguyễn, vì thế
thân phụ ông đã mang tên Nguyễn Sinh Huy. Trần Quốc Vượng đưa ra những chứng cứ
và biện luận khó phản bác.
Hồ Chí Minh đã sống thời niên thiếu như thế nào tại Việt Nam, đã làm gì tại
Pháp và tại Nga, đã có thành tích và trách nhiệm nào trước và trong thời gian
làm chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa? Ngay cả những tài liệu về Hồ Chí
Minh do những người cộng sản kỳ cựu gần gũi với ông viết ra cũng đã mâu thuẫn.
Chính Hồ Chí Minh cũng đóng góp tích cực vào việc gây hoang mang và lẫn lộn về
tiểu sử của ông. Ông dùng những bí danh T. Lan và Trần Dân Tiên để viết về mình
một cách mơ hồ. Trong cuốn "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch",
ông Trần Dân Tiên, tức Hồ Chí Minh, thuật lại cảm giác bồn chồn sung sướng khi
được "Hồ chủ tịch" tiếp và được ông Hồ Chí Minh trả lời như sau khi
ngỏ ý muốn viết tiểu sử của ông: "Tiểu sử? Đấy là một ý kiến hay. Nhưng hiện
nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ". Câu
chuyện này chứng tỏ Hồ Chí Minh là một người giả dối muốn đánh bóng tiểu sử của
chính mình; đó là tâm lý của những
người trong thâm tâm không hãnh diện về mình. Điều
đáng ghi nhận là mặc dù đã bỏ ra rất nhiều thời giờ và công sức và dùng tới hai
bút hiệu để viết về chính mình, một việc có lẽ chưa một nhà chính trị nào làm,
nhưng cả hai hồi ký của ông Hồ Chí Minh đều không có một giá trị lịch sử hay
chính trị nào cả, bởi vì chúng không đóng góp giải thích một sự kiện lịch sử
nào mà chỉ là những mẩu chuyện nhắm mục đích ca tụng ông Hồ Chí Minh như một
người tốt, tài giỏi, dũng cảm, có chí lớn, có quyết tâm, đáng ngưỡng mộ v.v. Hồ
Chí Minh hoàn toàn không hiểu ý nghĩa và hậu quả của những biến cố lớn của một
giai đoạn lịch sử trọng đại, trong đó ông là nhân vật chính; ông chỉ chú trong
đến những chuyện vụn vặt về cá nhân mình. Đây là một điều đáng buồn cho cả ông
Hồ Chí Minh lẫn dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã phá mọi kỷ lục Việt Nam về tiểu sử. Số sách và bài viết về ông
đã gấp hàng trăm lần bất cứ nhân vật lịch sử Việt Nam nào. Tuy vậy bí ẩn về ông
vẫn còn nguyên vẹn. Bài này vì vậy không phải là một đóng góp thêm về tiểu sử
ông Hồ Chí Minh mà chỉ có mục đích nhận diện một trong những huyền thoại nền tảng
của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chế độ cộng sản Việt Nam.
Có một số dữ kiện mà mọi người có thể đồng ý. Ông sinh vào khoảng 1890-1895 tại
Nghệ An, mồ côi mẹ rất sớm, cha đậu phó bảng, làm quan đến chức tri huyện nhưng
vì say rượu đánh chết người nên mất chức, bị tù, rồi lưu lạc vào Nam chết trong
cô đơn và nghèo khổ. Hồ Chí Minh học hết tiểu học, đang học trường Quốc Học tại
Huế thì phải bỏ học vì cha bị mất chức. Ông sống vất vưởng ở trong Nam, đặc biệt
tại Sài Gòn vài năm, rồi đi làm phụ bếp trên một tàu buôn và tới Pháp năm 1911.
Tại đây ông làm đơn xin vào học Trường Thuộc Địa, một trường đào tạo công chức
cho chế độ thuộc địa Pháp ở Nantes, nhưng bị từ chối. Ông lên Paris sinh sống bằng
nghề tô ảnh, gặp một số trí thức có tinh thần quốc gia trong đó có Phan Chu
Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và hợp tác với họ. Ông gia nhập Đệ Nhị
Quốc Tế, rồi Đảng Cộng Sản Pháp, và được gửi đi Nga huấn luyện năm 1923. Cuối
năm 1924 ông được cử làm thông ngôn cho phái đoàn Nga tại Trung Quốc do Borodin
cầm đầu; do biến cố này mà sự nghiệp chính trị của ông trở thành gắn bó với Việt
Nam. Ông trở thành đại biểu Đông Dương tại Đệ Tam Quốc Tế, đóng vai trò then chốt
trong việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam và trở thành lãnh tụ số 1 của đảng
này từ khi thế chiến II bùng nổ. Ông lãnh đạo cuộc Cách Mạng Tháng 8, rồi cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống chính quyền Bảo Đại do Pháp yểm trợ, kết thúc bằng
chiến thắng Điện Biên Phủ và hiệp định Genève. Ông mất năm 1969, giữa lúc cuộc
chiến tranh Nam Bắc đạt đến mức độ gây cấn nhất. Về đời tư ông có khá nhiều người
tình và cũng đã có vợ, có con, nhưng ông giấu nhẹm những chuyện này. Một trong
những người phụ nữ này là cô Nông Thị Xuân, có con với ông, đã chết trong một
trường hợp bí ẩn, thân nhân quả quyết là đã bị thủ tiêu. Những sự kiện này được
mọi nhà nghiên cứu nhìn nhận và cũng chưa hề bị Đảng Cộng Sản Việt Nam bác bỏ.
Đảng Cộng Sản Việt Nam và chế độ cộng sản Việt Nam đặt nền tảng trên ba huyền
thoại: chủ nghĩa cộng sản chủ trương giải phóng giai cấp vô sản và thiết lập một
thế giới công bằng lý tưởng; cuộc chiến đấu oanh liệt thắng Pháp, thắng Mỹ đem
lại độc lập và thống nhất đất nước; và thần tượng Hồ Chí Minh, một nhà tư tưởng
lớn, một nhà chính trị lỗi lạc, một mẫu mực về đạo đức, đồng thời cũng là một
người giản dị, khắc khổ chỉ sống cho đất nước.
Mỗi huyền thoại có một công dụng riêng. Chủ nghĩa cộng sản là một cứu cánh, một
biện minh sau cùng cho mọi hành động. Chiến công giành độc lập, thắng ngoại
bang cho Đảng Cộng Sản Việt Nam một sự chính đáng lịch sử và, quan trọng hơn,
tiêu biểu cho dụng cụ bạo lực sẵn sàng đập tan mọi chống đối. Thần tượng Hồ Chí
Minh là đối tượng để ngưỡng mộ và kính phục và đem lại cho đảng sự chính đáng về
mặt đạo đức. Ngày nay lý tưởng cộng sản không những đã sụp đổ mà còn bị lố bịch
hóa. Nó chỉ được duy trì qua loa như vòng phòng thủ bên ngoài. Còn lại cặp bài
trùng cố hữu và bắt buộc của mọi quyền lực : bạo lực và đạo đức. Bạo lực để đập
tan mọi chống đối, đạo đức để đừng bị chống đối. Đảng cộng sản dùng bạo lực để
áp đặt sự tôn sùng Hồ Chí Minh, ngược lại sự tôn sùng thần tượng Hồ Chí Minh,
biểu tượng của đảng, có tác dụng triệt tiêu ý muốn chống đối và do đó cho phép
tiết kiệm việc sử dụng bạo lực. Nếu một trong hai thành tố này không còn thì chế
độ cộng sản không thể tiếp tục tồn tại.
Vậy thì Hồ Chí Minh là nhân vật như thế nào?
Một tranh cãi quen thuộc là Hồ Chí Minh có phải là một người yêu nước và nhân bản
hay không? Sở dĩ câu hỏi này được đặt ra là vì Đảng Cộng Sản Việt Nam đề cao
ông như là chân dung của lòng yêu nước và đức hạnh, nhưng đây là một tranh cãi
phiến diện. Yêu nước là tình cảm tự nhiên của mọi người và ngay cả những kẻ phản
quốc cũng yêu nước. Sự quyến luyến với phần đất mà mình sinh ra và lớn lên nằm
trong phản xạ của mọi động vật, không cứ gì loài người. Vậy thì ông Hồ Chí Minh
chắc chắn là có yêu nước. Cũng thế, những giá trị nhân bản có sẵn trong mọi người.
Ngay cả những kẻ gian ác nhất cũng ưa chuộng sự lương thiện, sự thủy chung và
lòng bao dung. Con người đã được cấu tạo như thế. Vấn đề thực sự đặt ra là
trong hoàn cảnh khó khăn và trước hiểm nguy, lòng yêu nước và các giá trị đạo đức
như tình bạn, tình yêu có trọng lượng nào?
Hồ Chí Minh đã thẳng tay thủ tiêu các lực lượng chính trị, dù là cộng sản đệ tứ,
hay Đại Việt, hay Việt Nam Quốc Dân Đảng. Ông thừa biết là họ rất yêu nước,
nhưng họ không thuộc đảng cộng sản của ông và do đó sự hiện hữu của họ đe dọa độc
quyền lãnh đạo của ông.
Hồ Chí Minh biết bà Nguyễn Thị Năm là người vô tội, hơn thế còn là người tốt,
đã giúp đỡ nhiều cho đảng cộng sản và có con trai đang là trung đoàn trưởng
quân đội cộng sản. Ông quí bà Năm, nhưng khi cố vấn Trung Quốc cho biết là
không thể thay đổi quyết định xử bắn bà để thị uy vì tất cả mọi nghi thức đã sắp
xếp xong rồi thì ông im mồm và để cho bà Năm bị bắn. Sau này, trong các vụ Nhân
Văn - Giai Phẩm và "xét lại chống đảng" ông cũng để mặc cho các cộng
sự viên gần gũi bị bách hại oan ức. Ông bỏ rơi bà vợ chính thức Tăng Tuyết Minh
để giữ hình ảnh một lãnh tụ thánh thiện chỉ sống cho đất nước và lấy đất nước
làm gia đình. Cũng vì hình ảnh này mà ông hoặc đã ra lệnh hoặc đã chấp nhận thủ
tiêu cô Nông Thị Xuân và bỏ rơi người con của ông với cô này. Có rất nhiều khả
năng là chính ông đã quyết định tội ác này bởi vì ông quan tâm một cách bệnh hoạn
đến hình ảnh của mình, ông đã dùng cả hai bí danh để viết sách tự đánh bóng
mình. Một người không mắc bệnh tâm thần không thể làm như thế. Tóm lại, khi đứng
trước khó khăn thì lòng yêu nước, những giá trị đạo đức, cũng như danh dự và an
ninh của những người thân thiết với ông không có một trọng lượng nào đối với Hồ
Chí Minh cả, ông có thể nhẫn tâm một cách đáng sợ.
Ông Hồ Chí Minh thiếu hẳn những kiến thức cần thiết mà mọi người lãnh đạo quốc
gia, ngay cả trong thời đại của ông, phải có. Ông hoàn toàn không biết gì về
khoa học, kỹ thuật, kinh tế, tài chính, luật pháp, và ngay cả về nông nghiệp.
Trong cuốn sách "Mấy kinh nghiệm Trung Quốc cần phải học" mà ông viết
dưới bút hiệu Trần Lực (nhà xuất bản Sự Thật, 1958, tr. 41), ông tin và kêu gọi
mọi người tin là một mẫu lúa tại Trung Quốc có thể đạt được 333 tấn lúa mỗi
năm. Những phát biểu của ông, dù là bài viết hay bài nói, không chứng tỏ một sự
hiểu biết nào, dù sơ sài đến đâu, về lịch sử thế giới và tư tưởng chính trị. Việc
Đảng Cộng Sản Việt Nam đề cao ông như một nhà tư tưởng là cả một xúc phạm đối với
trí tuệ.
Không phải là Hồ Chí Minh không có tài, nhưng cái tài của ông ở chỗ khác. Ông lặn
lộn và từng trải, học được nhiều bài học thực dụng. Ông sống một thời niên thiếu
bi đát, một tuổi thanh niên chật vật, được hoàn cảnh đưa đẩy đến những hoạt động
phiêu lưu nguy hiểm, được huấn luyện để làm gián điệp tại Nga và đã hoạt động
tình báo thực sự với cả Nga, Trung Quốc lẫn Mỹ và Pháp trong bối cảnh chiến
tranh và khủng bố. Có thể nói ông là người Việt Nam đầu tiên trong thế kỷ 20 có
huấn luyện và kinh nghiệm trong các tổ chức quốc tế. Cuộc sống đó đã tạo cho
ông một bản năng sống còn đặc biệt bén nhậy và đã khiến ông hạ được các đối thủ,
trong cũng như ngoài đảng cộng sản, nhưng mặt khác cũng đã khiến ông đặt an
ninh, địa vị và danh tiếng cá nhân lên trên hết, và ông trở thành nguy hiểm cho
mọi người vô tình hay cố ý trở thành một đe dọa thực sự hay tưởng tượng đối với
ông.
Quãng đời đấu tranh chống chế độ thuộc địa của ông ngay trên đất Pháp trong thời
gian 1915-1923, thường được Đảng Cộng Sản Việt Nam nhắc tới như một thiên anh hùng
ca. Hai sự kiện nói lên con người Hồ Chí Minh. Ông rất ít nhắc tới những đồng
chí của ông trong giai đoạn này, như các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Truờng,
Nguyễn Thế Truyền đã hướng dẫn ông, nhất là Nguyễn Thế Truyền, người bạn thân
đã đem ông vào Đảng Cộng Sản Pháp. Ông giành mọi thành tích của nhóm này cho
riêng mình. Một sự kiện khác là ông đã tham gia hội Tam Điểm. Đây là một hội
kín mà theo một số tài liệu đã xuất hiện từ thế kỷ thứ 10 và có thế lực lớn tại
các nước phương Tây, kể cả tại Pháp. Hội này có đặc tính nổi bật là các hội
viên che chở cho nhau, mặt khác nó cũng chống chính sách thực dân. Tam Điểm có
vô số nhân vật đầy quyền lực cho nên khi ra mặt đả kích chế độ thực dân tại
Pháp Hồ Chí Minh đã được bảo vệ. Nhưng Tam Điểm mâu thuẫn với Đệ Tam Quốc Tế Cộng
Sản nên từ 1920 các đảng viên cộng sản bị cấm gia nhập hội này. Hồ Chí Minh đã
chọn Đệ Tam Quốc Tế vì phong trào này cho ông một triển vọng thăng tiến lớn.
Ông lặng lẽ bỏ hội Tam Điểm như một thành viên bị mất tích và cũng không khai
báo gì với Đệ Tam Quốc Tế. Hồ Chí Minh đi hai hàng, Tam Điểm không biết ông là
cộng sản, ngược lại Đệ Tam Quốc Tế cũng không biết ông là hội viên Tam Điểm.
Sau Cách Mạng Tháng 8, những người hoạt động chính trị tại Việt Nam và thuộc hội
Tam Điểm, do đó có khả năng biết Hồ Chí Minh cũng thuộc hội này, như Tạ Thu
Thâu, Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo, v.v. đều bị thủ tiêu nhanh chóng. Ngoài
ra còn có một đợt tàn sát khó hiểu đối với chức sắc Cao Đài, một biến thể của hội
Tam Điểm tại Việt Nam, mà Nguyễn Hộ có kể lại trong hồi ký của ông. Sự tàn sát
này phải chăng có mục đích khiến không ai ngờ rằng Hồ Chí Minh có một liên hệ
nào với Tam Điểm? Điều chắc chắn là cho tới khi ông qua đời không ai biết Hồ
Chí Minh đã thuộc hội này. Sự thực mới chỉ được phơi bày gần đây.
Cái gì đã khiến Hồ Chí Minh thành công? Có lẽ lý do chính là ông đã được huấn
luyện tại Nga trong bối cảnh khủng bố của các thập niên 1920 và 1930 nên đã hiểu
được bí quyết thành công của Đảng Cộng Sản Nga và hiệu lực của khủng bố. Đừng
nên quên rằng cuộc cách mạng lật đổ Nga hoàng đã xảy ra vào tháng 2/1917, trong
đó đảng cộng sản chỉ có một vai trò không đáng kể. Cách Mạng Tháng 10 Nga chỉ
là cuộc đảo chính của đảng cộng sản sau khi đã nắm được thế thượng phong nhờ khủng
bố. Hồ Chí Minh đã được huấn luyện về khủng bố và đã áp dụng khủng bố một cách
thẳng tay. Cách Mạng Tháng 8 đã khởi đầu với sự thủ tiêu hàng loạt các "phần
tử phản động". Cuộc chiến tranh 1946-1954 đã là một giai đoạn khủng bố
kinh hoàng. Đặc tính lãnh tụ khủng bố của Hồ Chí Minh cho đến nay chưa được nhấn
mạnh đúng mức. Hồ Chí Minh sử dụng khủng bố ngay cả khi không cần thiết như
trong vụ Nhân Văn - Giai Phẩm và nhất là trong đợt Cải Cách Ruộng Đất năm 1955,
trong đó hàng trăm ngàn người đã bị sát hại. Không thể đổ lỗi cho Trường Chinh,
Hoàng Quốc Việt và Hồ Viết Thắng vì lúc đó Hồ Chí Minh còn nắm mọi quyền hành.
Cũng nên nhớ là mãi tới năm 1958, ba năm sau khi Cải Cách Ruộng Đất đã được
nhìn nhận là một sai lầm đẫm máu, Hồ Chí Minh vẫn còn cho xuất bản cuốn sách mà
ông viết dưới bút hiệu Trần Lực ca tụng cải cách ruộng đất tại Trung Quốc,
khuôn mẫu của đợt cải cách ruộng đất tại Việt Nam.
Hồ Chí Minh chắc chắn là có tài, nhưng là cái tài của một chuyên viên sách động,
khủng bố, lật đổ và cướp chính quyền, chứ không phải là cái tài của một người
lãnh đạo quốc gia.
Còn về con người Hồ Chí Minh? Có thể tóm tắt ông đã là một đứa trẻ không may,
không được nuôi nấng và dạy dỗ trong tình yêu và hạnh phúc, mất mẹ sớm lại phải
chịu đựng một ông bố nghiện ngập và hung dữ. Gia đình ông đã là một thảm kịch
và ông đã phải bỏ học và lăn lộn với đời rất sớm. Mỗi thảm kịch trong tuổi thơ
đều để lại một thương tích trong con người và Hồ Chí Minh cũng không phải là một
ngoại lệ. Ông đã bị chấn thương về tâm thần. Có lẽ chính thảm kịch gia đình, mà
theo Trần Quốc Vượng đã bắt đầu ngay từ bà nội ông nhưng chắc chắn là đã trầm
trọng từ đời thân phụ ông, đã khiến Hồ Chí Minh không có tình cảm gia đình. Tất
cả những tài liệu do những người gần gũi với ông viết ra đều không bao giờ thuật
lại một lần nào Hồ Chí Minh nhắc đến cha mẹ, anh em, ngày giỗ v.v. Đặc biệt là
ông không coi trọng phụ nữ, dù là bà Tăng Tuyết Minh hay cô Nông Thị Xuân hay
những người đàn bà khác. Trong cuộc đời Hồ Chí Minh không có những người đàn bà
sung sướng và được quí trọng. Chị ông, mẹ ông và có lẽ cả bà nội ông, đã chỉ là
những người sinh ra để làm nạn nhân. Thảm kịch cá nhân của Hồ Chí Minh đã biến
ông thành một người mưu lược, khéo léo, nhưng vô nguyên tắc và không bị trói buộc
bởi một giá trị nào.
Hồ Chí Minh có công hay có tội? Đó là một vấn đề sẽ còn tranh cãi rất nhiều và
rất lâu. Nhưng nếu ta đặt câu hỏi một cách khác: "Nếu không có Hồ Chí Minh
và đảng cộng sản thì Việt Nam sẽ khá hơn hay sẽ kém hơn hiện nay?" thì chắc
chắn tuyệt đại đa số người Việt sẽ có cùng một câu trả lời. Nói chung Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam đã là những sự kiện đáng tiếc. Trong cuốn
"Thời Dựng Đảng" do Đảng Cộng Sản Việt Nam xuất bản, ông Thép Mới viết
: "Các thế hệ Việt Nam sau này sẽ nhớ đến Hồ chủ tịch như là người đã có
công đem chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam". Nhận định này đúng, và giải
thích lý do tại sao Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn cố gượng gạo duy trì trên đầu
môi chủ nghĩa Mác - Lênin. Vấn đề là việc đem chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt
Nam có lợi gì?
Nhưng dù Hồ Chí Minh có thế nào đi nữa, dù ông có công hay có tội, thì ông cũng
vẫn là một con người và vẫn phải được hưởng quyền tối thiểu của một người chết,
nghĩa là được yên nghỉ. Việc đem xác một người đã chết trưng bày ở giữa một
công trường, dù là trong một lăng đồ sộ và trong một lồng kiếng, là một hành động
dã man theo văn hóa Việt Nam. Không một người Việt Nam nào có thể bị đối xử như
thế. Hồ Chí Minh đã bị sử dụng như một dụng cụ tuyên truyền. Đã đến lúc ông có
quyền được an táng một cách văn minh.
Nguyễn Gia Kiểng
(Tháng 5/1994)
No comments:
Post a Comment