Không
sinh con, cuộc phản kháng thầm lặng tại Trung Quốc
Lê Tây Sơn
1
tháng 3, 2023
Tỷ lệ sinh và kết hôn sụt giảm tại Trung Quốc (TQ)
là phản ánh sự bi quan và thất vọng sâu sắc của người dân quốc gia có nền kinh
tế lớn thứ hai thế giới này.
Hậu quả của mô hình toàn trị
TQ đang ở giữa một đợt sụt giảm kéo dài tỷ lệ sinh con trên toàn quốc.
Tháng trước, chính quyền TQ đã có cảnh báo mới về tình trạng dân số giảm. Tầm
quan trọng của cảnh báo là rất lớn, dù thường bị các nhà quan sát trên thế giới
bỏ qua trước đó. Gần đây nhất, năm 2019, các nhà nhân khẩu học tại Cơ quan điều
tra dân số Hoa Kỳ (U.S. Census Bureau-UNCB) và Liên Hợp Quốc vẫn không tin dân
số TQ sẽ bắt đầu giảm trước thập niên 2030. Nhưng họ không lường trước được đợt
suy giảm đến sớm hơn và nhanh hơn.
Chính vì vậy, nguyên nhân của sự sụt giảm dân số của TQ đang được xem
xét kỹ hơn. Những hậu quả nặng nề có thể xảy ra với thế giới khi cuộc khủng hoảng
dân số tại TQ tiếp tục ảnh hưởng đến quốc gia này ở cả ba lĩnh vực: Kinh tế,
chính trị, chiến lược. TQ là “công xưởng của thế giới” nên lực lượng lao động cần
được duy trì bằng dân số ổn định. Việc TQ giảm tỷ lệ kết hôn và sinh con là hồi
chuông báo động và sự bất mãn sâu sắc về một tương lai mờ mịt mà chế độ định đoạt
cho người dân của mình.
Ở vùng đất không có dân chủ này, sự sụp đổ tỷ lệ sinh có thể được xem
là cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm thầm lặng nhưng “long trời lở đất” đối với ách
cai trị “hoàng đế trọn đời” Tập Cận Bình. Các số liệu thống kê chính thức của
chính phủ TQ còn lâu mới hoàn hảo (Thủ tướng Lý Khắc Cường từng gọi các con số
kinh tế của TQ là “sản phẩm của con người”), nhưng chúng cũng đưa ra ước tính gần
đúng về xu hướng sinh gần đây.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/03/GettyImages-515586532.jpg
Chính sách một con dù được điều chỉnh nhưng tỉ lệ sinh ở Trung Quốc vẫn
không hề khả quan (ảnh: Getty Images)
The
Washington Post cho biết, theo dữ liệu, tỷ lệ sinh ở TQ đã giảm mạnh
và giảm đều đặn kể từ năm 2016. Năm 2022, số ca sinh chỉ bằng khoảng một nửa so
với sáu năm trước đó (9.6 triệu so với 17.9 triệu). Sự thay đổi lớn về tỷ lệ
sinh con có trước cả đại dịch coronavirus và nó dường như là một phần của cú sốc
lớn hơn: Hôn nhân ở TQ cũng đang rơi tự do. Kể từ năm 2013 (năm Tập Cận Bình bắt
đầu nắm quyền) tỷ lệ các cuộc hôn nhân đầu tiên ở TQ đã giảm hơn một nửa và tiếp
tục giảm ở cả tỷ lệ sinh con.
Tỷ lệ sinh và tỷ lệ kết hôn cũng giảm trên toàn thế giới nhưng diễn ra
dần dần suốt nhiều thập niên; trong khi tại TQ, những cơn địa chấn nhân khẩu học
xảy ra rất nhanh. Giảm hôn nhân và giảm sinh con hầu như không bao giờ biến
thành “cú sốc lớn” trong thời bình ở các chế độ dân chủ. Chỉ có nạn đói, chiến
tranh hoặc những biến động tàn khốc khác mới dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng và
nghiêm trọng tỷ lệ hôn nhân và sinh sản. Nay, TQ đang ở trong tình trạng này,
nhưng nguyên nhân là các vấn đề nội tại của chế độ độc tài đảng trị và cá nhân
trị làm mất lòng tin của người dân vào tương lai.
Lao dốc
Muốn hiểu các yếu tố dẫn đến việc giảm gần 50% tổng số ca sinh của một
quốc gia chỉ trong vòng vài năm hãy nhìn lại các ước tính của Ban Dân số Liên Hợp
Quốc (U.N. Population Division-UNPD). Trong nạn đói thời Mao Trạch Đông tại TQ
khiến hàng chục triệu người chết, mức sinh đã giảm dưới 40% từ năm 1957 (năm cuối
cùng trước Đại nhảy vọt) đến năm 1961 (năm tệ nhất của nạn đói).
Trong thời kỳ hỗn loạn sau sự sụp đổ của Liên Xô, mức sinh của Liên
bang Nga giảm dưới 40% từ 1988 (năm trước khi Bức tường Berlin sụp đổ) đến 1994
(khi tuổi thọ của nam giới giảm xuống mức khủng khiếp, chỉ còn 57 tuổi!). Trong
thời gian Nam Tư tan rã và thanh lọc sắc tộc man rợ, mức sinh ở Bosnia giảm khoảng
40%, từ 1990 (năm cuối cùng trước khi Nam Tư tan rã) đến 1995.
Thời Pol Pot, kiến trúc sư của chế độ diệt chủng Campuchia, tổng số ca
sinh giảm một nửa trong cơn ác mộng Khmer Đỏ (theo UNPD, mức sinh giảm 48% từ
1973 đến 1977). Tuy nhiên, TQ đang ở thời kỳ xã hội không hề hỗn loạn, sức khỏe
kinh tế khá ổn và không hề có dấu hiệu tận thế sắp đến, tại sao vẫn chịu đựng đợt
lao dốc sinh nở đau đớn của chính mình mà chưa biết bao giờ mới kết thúc?
Câu trả lời thuyết phục nhất nằm ở tầm nhìn chán nản của chính người
dân TQ. Không có chiến tranh (một trong những yếu tố dự đoán mạnh mẽ nhất về
sinh suất trên toàn thế giới) giữa các quốc gia, giữa các sắc tộc và không có
thảm họa đói kém, nhưng cả đàn ông và phụ nữ TQ đều ngại kết hôn và sinh con.
Rõ ràng, hơn bất kỳ nguyên nhân nào khác, quyền tự quyết của con người đóng vai
trò quan trọng trong mô hình sinh đẻ của các quốc gia, ở đây là TQ, và đó là sự
thật hiển nhiên.
Có thể giải thích sự suy giảm tỷ lệ sinh của TQ kể từ năm 2016 là “cuộc
cách mạng”, một sự thay đổi đột ngột trong tâm trạng quốc gia, lan tỏa như trận
cháy rừng với cả bi quan lẫn tuyệt vọng. Thực ra, ngay trong năm 2016, mức sinh
của TQ đã thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ 2.1 trẻ em trên một phụ nữ, mức cần
thiết để giữ vững dân số.
Theo UNPD, tỷ lệ sinh năm 2016 tại TQ chỉ đạt 1.77, tức thấp hơn 19% so
với tỷ lệ sinh cần thiết. Làn sóng lao dốc trong tỉ lệ sinh kéo dài sáu năm sau
đó đã kéo mức sinh xuống mức cực kỳ thấp. Nếu số liệu sinh năm 2022 là chính
xác, tỷ lệ sinh trên toàn quốc sẽ thấp hơn một nửa so với mức sinh cần thiết.
Ngay cả khi sự lao dốc bị chặn lại và mức sinh giữ yên vị, thì số dân thay thế
số mất đi vẫn chỉ đạt một nửa so với thế hệ trước.
“Tối hậu nhất đại” (最后一代, Thế hệ cuối
cùng)
Không chỉ TQ mà phần lớn Đông Á cũng có tình trạng sinh thấp, gồm Nhật
Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Nhưng ở TQ, nó diễn ra nhanh hơn nhiều dưới một chế
độ độc tài đang khuyến khích thần dân của mình hy sinh hơn cho đế chế. Thời điểm
sụp đổ tỉ lệ trẻ sơ sinh của TQ có ý nghĩa quan trọng, bất chấp quyết định của
Đảng Cộng sản TQ cho ngưng chính sách kiểm soát sinh sản cưỡng chế được áp đặt
suốt nhiều thập niên.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/03/GettyImages-1469151078.jpg
“Thế hệ cuối cùng” (ảnh: VCG/VCG via Getty Images)
Cuối cùng, năm 2015, các nhà hoạch định dân số của Bắc Kinh phải công
nhận “chính sách một con” đã ảnh hưởng tồi tệ đến lợi ích của nhà nước. Vì vậy,
đến lúc phải đảo ngược chính sách này. Tuy nhiên chế độ tuyên bố vẫn giữ quyền
quyết định quy mô gia đình, tức là quyền sinh sản, và nói theo tờ Nhân dân Nhật
báo thì đây là “công việc của nhà nước, do chính phủ quản lý”.
Muốn có nhiều trẻ sơ sinh khó hơn hạn chế sinh đẻ. Một chế độ độc tài
có thể sử dụng lưỡi lê để giảm số ca sinh nhưng dùng các công cụ trấn áp buộc
phụ nữ sinh con sẽ phức tạp hơn rất nhiều, nếu không muốn nói là không thể. Bắc
Kinh vẫn chưa tìm ra cách để người dân lạc quan về tương lai và bỏ qua suy nghĩ
không muốn đưa thêm đứa con nào vào một thế giới hà khắc của công nghệ nhận dạng
khuôn mặt và kiểm duyệt tự do.
Thay vào đó, hàng triệu thanh niên TQ âm thầm tham gia các phong trào bất
tuân dân sự mới tự phát như xa lánh công việc (“tang ping”-thảng bình, 躺平, nằm bẹp ở nhà), không lập gia đình và rút lui khỏi xã hội. Chế độ Tập
Cận Bình không biết phải làm gì với hình thức phản kháng thầm lặng này.
Năm ngoái, trong đợt phong tỏa quyết liệt vì đại dịch Covid, một đoạn
video lan truyền cho thấy cảnh sát y tế TQ mặc đồ bảo hộ che mặt cố gắng cưỡng
ép một thanh niên ra khỏi căn hộ của mình để đưa đến trại cách ly. Khi anh ta
(đã xét nghiệm âm tính với Covid) không tuân lệnh, họ cảnh báo: “Nếu bạn không
tuân thủ, điều tồi tệ có thể xảy ra với gia đình bạn trong ba thế hệ”. Câu trả
lời là: “Xin lỗi, chúng tôi đã là thế hệ cuối cùng!”.
No comments:
Post a Comment