Khi
giới lãnh đạo trở thành tầng lớp thống trị giàu có, cải cách thế nào?
Bài
phân tích của TS. Phạm Quý Thọ
2022.02.08
Giới lãnh đạo đảng cộng sản hiện nay trở nên
“hữu sản” giàu có. Họ khác biệt với thế hệ cộng sản, “nguyên thuỷ vô sản”, có
cơ hội chuyển hoá “đặc quyền” thành “đặc lợi” và tìm mọi cách để duy trì chế độ
đã thay đổi về bản chất.
Nếu đặc điểm nêu trên được tính đến như một thực
tế thì việc tiếp cận với cải cách sẽ phải thay đổi để có thể mang lại niềm tin
cho người dân. Đó là xây dựng các thể chế cụ thể nhằm thúc đẩy quá trình dân chủ
hoá xã hội.
Thực
tế sự giàu có của quan chức là không thể phủ nhận. Để biết đầy đủ mức độ đến đâu là không thể vì đây là chủ đề “nhạy cảm”
với chế độ, nhưng quá trình “hữu sản hoá” nhanh chóng, đặc biệt trong thời buổi
“tranh tối tranh sáng” của kinh tế thị trường, mang tính xu hướng và có hệ thống.
Trước hết, từ những lời đồn, bàn tán của dư luận ở nhiều nơi và trong nhiều
tình huống “bên lề” các sự kiện quan trọng hay mỗi khi có quan tham bị trừng phạt.
Chẳng hạn trước Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12, những khối tài sản
khủng, những biệt phủ, những ngôi nhà mặt phố hay các trang trại của nhiều lãnh
đạo cao cấp nhất được nêu đích danh và bị “tung hô” trên các trang mạng
như “Quan làm báo”, “Dân làm báo”….
Những tin tức kiểu như trên chỉ được xem là
các thủ đoạn đấu đá, tranh giành quyền lực trong nội bộ Đảng. Tuy nhiên, từ khi
Đảng đẩy mạnh chiến dịch chống tham nhũng “không vùng cấm”, dư luận dần biết rõ
hơn về sự giàu có của quan chức qua các phương tiện truyền thông của Nhà nước.
Lúc đầu có thể chỉ là những tin đơn lẻ ở một tỉnh miền núi kiểu như trường hợp
một giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Yên Bái có biệt phủ khang trang, cầu
treo, hồ cá trên vùng đất rộng hàng ha… khiến dư luận xôn xao. Sau đó, từ các vụ
đại án tham nhũng như “Út trọc”, “Vũ nhôm” hay nhận hối hộ hàng triệu đô la,
tuy còn hạn chế, nhưng đã phần nào phản ánh quy mô và tính chất độ giàu có của
quan chức.
Các nhà cải cách đã công khai thừa nhận thực
trạng giàu có của quan chức trong bộ máy công quyền, đã ban hành những quy định
về kê khai tài sản của công chức từ cấp phó phòng trở lên. Ở một số đơn vị sự
nghiệp công lập bản kê khai này được niêm yết công khai cho các nhân viên,
nhưng ở các cấp lãnh đạo cao của Đảng được phân cấp quản lý hồ sơ, thường là
tài liệu mật đối với cấp cao nhất. Tuy nhiên, chính sách này gần như là thất bại,
mang tính hình thức và không có ai bị “xử lý” về nguồn gốc bất minh. Thậm chí
trái lại, những phản ứng “ngược” đã xuất hiện khi cho rằng liệu có vi phạm “quyền
riêng tư” hay không. Không thể kiểm soát được nguồn gốc tài sản giải pháp chính
sách chống tham nhũng dựa trên “bằng chứng” trở nên bế tắc. Gần đây, tại phiên
họp 21 ngày 20/1/2022 của Ban chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng, tiêu cực,
ông Tổng Bí thư Đảng CS kiêm Trưởng Ban đã phát biểu về “tăng cường kiểm tra đảng
khi có dấu hiệu” như một lời cảnh báo mang tính tình huống.
Một người lái xe ôm
đang ngủ trên chiếc xe máy trước một tấm biển quảng cáo khu nhà ở cao cấp ở
TPHCM. AFP
Mục đích chống tham nhũng được Đảng coi trọng
để Đảng và Nhà nước “trong sạch, vững mạnh”, nhưng dường như chính sách này
đang gặp thách thức từ chính nội bộ. Nhiều vụ việc và quan tham hơn bị trừng trị,
nhưng tình hình nghiêm trọng của quốc nạn tham nhũng không thuyên giảm. Đảng đã
biện minh cho thực trạng này là “sự suy thoái” của các quan chức hư hỏng, số “bị
lộ” bị xử lý và “chưa bị lộ” được cảnh báo, nhưng những vụ việc gần đây như đại
án “Việt Á” hay “Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao” cho thấy tham nhũng vẫn phát sinh
mỗi khi có cơ hội trục lợi dù hành vi như trên bị lên án là “tội ác” trong bối
cảnh đại dịch COVID-19 gây chết chóc và tàn phá nền kinh tế. Gần đây, nhiều ý
kiến đã thẳng thắn chỉ ra căn nguyên của tình hình tham nhũng là sự tha hoá quyền
lực. Trong phiên họp 21 nêu trên, dự kiến xây dựng một “quy chế kiểm soát quyền
lực” được giao cho Ban Nội chính Trung ương chủ trì soạn thảo. Đây có thể là nỗ
lực được tiếp tục thiết kế “lồng thể chế” đã được nêu từ trước Đại hội 13,
nhưng có thể dự đoán sẽ gặp thách thức rất lớn từ nội bộ bởi “ta đánh ta” đang
đến hồi căng thẳng.
Bộ máy công quyền khác thời “cách mạng” về bản
chất, trong đó giới lãnh đạo “vô sản” đã trở thành tầng lớp “hữu sản” giàu có.
Nhấn mạnh “chỉnh đốn” Đảng mong muốn quay trở lại mô hình Lenin về tổ chức nhân
sự để có thể “lật ngược” tình thế khó khăn sau Cách mạng vô sản Tháng 10 Nga
năm 1917. Đó là mô hình chuyên chế, trong đó bằng bạo lực những đảng viên cộng
sản nhận “xứ mệnh lịch sử” (dù là thiên đình hay thần linh giao phó – cách giải
thích bí hiểm đã từng được Thomas Hobbes là một Triết gia người Anh thế kỷ 17
mô tả là "quyền thiêng liêng của các vị vua!" – “divine right of
kings”) là lãnh đạo quốc gia phá bỏ áp bức bóc lột và xây dựng xã hội chủ
nghĩa.
Tuy nhiên, trong suốt hơn một thế kỷ tồn tại
“bộ máy đảng trị” dù luôn điều chỉnh để thích nghi với tình hình, nhưng đã thay
đổi về bản chất từ khi chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường. Giới lãnh đạo đảng
CS đã hình thành tầng lớp thống trị mới “nomenklatura” (gốc tiếng Nga: номенклатура)
có đặc quyền, đặc lợi ở hầu hết các vị trí hành chính quan trọng trong mọi lĩnh
vực hoạt động từ hệ thống chính trị (Đảng, Nhà nước, các đoàn thể) đến kinh tế,
văn hoá- xã hội. Sự vận hành của nó được biện minh nhằm mục đích với các giá trị
lý tưởng cao đẹp, nhưng đã phụ thuộc vào bộ máy này, vào quyền lực của nó tập
trung tinh vi và phức tạp theo hình tháp với đáy là các chi bộ - cấp cơ sở thực
thi qua các cấp trung gian lên đến đỉnh, ban chấp hành trung ương, ban bí thư,
bộ chính trị – cơ quan quyền lực tối cao của đảng và kết thúc bằng quyền lực
tuyệt đối – tổng bí thư. Mô hình này được “du nhập” “sáng tạo” để thích nghi với
chế độ phong kiến Á Đông vốn đã tồn tại ở Trung Quốc hàng nghìn năm với hai cội
nguồn, đó là “bộ máy Nhà nước tập quyền cao độ và không có đối trọng, được vận
hành bởi một tầng lớp quan lại được tuyển chọn thông qua học vấn”, mà Việt Nam
là một biến thể.
Đặc
điểm “đặc quyền đặc lợi” phản ánh rõ nhất sự tha hoá quyền lực đảng. Trong thời bao cấp kinh tế khó khăn, giới lãnh đạo đã sử dụng cơ chế
phân phối vật chất theo đẳng cấp. Các lãnh đạo tuỳ theo phân loại, chẳng hạn hạng
A đặc biệt dành cho các uỷ viên ban chấp hành trung ương, hạng B là cấp tương
đương thứ trưởng và C là cao cấp…, ngoài các tiêu chuẩn nhà ở, phương tiện đi lại,
nơi nghỉ dưỡng… còn có các cửa hàng riêng để được mua những loại hàng hoá riêng
không có ngoài xã hội. Thời kỳ đầu Đổi mới kinh tế thị trường tạo ra động lực
tăng trưởng thần kỳ với khối lượng của cải mới được tạo ra trong bối cảnh toàn
cầu hoá. Cải cách chính trị đã không theo kịp kinh tế đã tạo cơ hội cho “bộ máy
quan lại” “có quyền và gần tiền” trở nên tham lam, tìm mọi cách dưới các hình
thức tinh vi để biến “đặc quyền” thành “đặc lợi”, trong đó chủ yếu liên kết
công khai bởi chính sách hay mờ ám bởi các quan hệ “thân hữu” vì lợi ích nhóm,
với giới kinh doanh trong “khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài” hay trong
nước, nhưng thực chất họ là các nhà tư bản, để hình thành “nhà nước tư bản thân
hữu”.
Giới lãnh đạo
đảng nay đang là tầng lớp “hữu sản” giàu có. Ý
thức hệ “linh hoạt” đang cố giải thích thực tế này, dù bằng “truyền thống cách
mạng vẻ vang” của thế hệ “cha anh”, rằng “thành tích” xoá đói giảm nghèo là to
lớn hay tương lai đất nước sẽ hùng cường sẽ vẫn là chủ nghĩa xã hội, mà sự thực
hành “chính sách thực dụng” hiện nay chỉ là “sách lược”, tuy nhiên cũng không
thể phủ nhận được khoảng cách giàu nghèo chênh lệch lớn, mà đáy là đại bộ phận
lao động nghèo trong khi giới lãnh đạo giàu có ở trên đỉnh thang đo phân tầng
xã hội.
Bản chất quyền lực và lợi ích của bộ máy nhà
nước đã thay đổi. Tầng lớp hữu sản giàu có đang củng cố vị trí trong hệ thống
chính trị hiện hành, họ có “đặc quyền” để chuyển thành “đặc lợi” và, tất nhiên
hơn thế, cái “đặc quyền thiêng liêng” ấy luôn được “níu kéo”, “viện dẫn” để sẵn
sàng bảo vệ những “đặc lợi” đã tích luỹ qua các thế hệ. Vậy cải cách chính trị
sẽ ra sao nếu không thay đổi cách tiếp cận?
----------------------------------------------------------------
* Bài viết không thể
hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do.
.
Tin, bài liên quan
·
Việt
Nam “mở” đối ngoại nhưng “bóp” đối nội
·
Văn
hoá bất ổn trong bối cảnh cải cách thể chế khó khăn
·
Thói
đạo đức giả của quan chức có nguyên nhân thể chế
·
Nỗi
lo của người dân từ việc chống suy thoái của Đảng
·
Chính
“giai cấp mới” góp phần kết liễu chế độ toàn trị
No comments:
Post a Comment