Y Chan – Luật Khoa
20/09/2020
Những
người Cộng hòa Czech vừa đến thăm Đài Loan và nhắc cả thế giới nhớ về một lời
tuyên ngôn tự do.
*
Vào thời kỳ bắt đầu mở cửa,
Việt Nam đón nhận các chuyến thăm thường xuyên từ nước ngoài của các quan chức,
doanh nhân, cả những nghệ sĩ nổi tiếng. Một động tác luôn khiến người Việt
thích thú trong những chuyến thăm đó là việc các vị khách chịu chào hỏi bằng tiếng
Việt, kiểu như “xin chào Việt Nam” hay “tôi yêu Việt Nam”. Khách đến thăm càng
có “số má”, những câu tiếng Việt đơn giản kia càng khiến chủ nhà nức lòng.
Ở một góc độ nào đó, người
Đài Loan cũng có một tâm thức tương tự. Tuy không bế quan tỏa cảng, nhưng
trong suốt vài chục năm qua Đài Loan luôn trong tình cảnh bị ông hàng xóm Bắc
Kinh cô lập triệt để về ngoại giao, tìm mọi cách quấy nhiễu đe dọa bất kỳ quốc
gia nào “dám” có ý định thiết lập bang giao với đảo quốc.
Dễ hiểu vì sao người dân
Đài Loan lại như “lên đồng” với phát
ngôn vào hôm 1/9 vừa rồi của Milos Vystrcil, Chủ tịch Thượng viện nước
Cộng hòa Czech, trong chuyến thăm Đài Loan của ông.
Phát biểu trước Viện Lập
pháp Đài Loan (tương tự như Quốc hội), nhân vật có quyền lực thứ ba của Czech
đã dùng tiếng Phổ thông dõng dạc tuyên bố “Tôi là người Đài Loan” (我是台灣人).
So với những câu “xin
chào” hay “tôi yêu…” vô thưởng vô phạt, những lời này có sức nặng gấp trăm ngàn
lần, nhất là khi người ta lần ngược lại bối cảnh lịch sử đặc biệt của nó.
Berlin – “Hòn đảo” của tự do
Câu nói này đi vào lịch sử
từ năm 1963, khi cố Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đến thăm Tây Berlin vào thời
điểm khu vực này bị bức tường do lực lượng Xô Viết dựng lên cô lập hoàn toàn.
Ông Kennedy đã có một bài diễn văn ngắn, trong đó bốn tiếng “Ich bin ein
Berliner” (Tôi là người Berlin) trở thành huyền thoại trong lòng người dân châu
Âu, đặc biệt là người Đức.
Quang cảnh bài diễn
văn đi vào lịch sử của John F. Kennedy, ngày 26/6/1963 ở Tây Berlin. Ảnh:
History.com.
Sau Thế chiến II, phát xít
Đức bại trận. Toàn bộ lãnh thổ nước Đức bị chia ra bốn phần do các nước Đồng
minh thắng trận quản lý. Phần phía Tây thuộc về Mỹ, Anh, và Pháp, được gộp lại
thành nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức). Phần phía Đông do Liên Xô quản lý,
tạo thành nước Cộng hoà Dân chủ Đức (Đông Đức). Berlin nằm lọt hoàn toàn
trong phần lãnh thổ Đông Đức. Nhưng vì là thủ đô, nên bản thân thành phố này
cũng được chia đôi theo cách tương tự.
Trong khi Tây Đức được
các nước phương Tây đổ tiền vào tái thiết sau chiến tranh, Đông Đức phải cung cấp
tài nguyên vật lực cho Liên Xô để “chi trả hậu quả” cho cuộc chiến. Tây Đức vận
hành theo mô hình tư bản, Đông Đức trở thành một nước cộng sản mới kiểu Xô Viết.
Chỉ hơn một thập niên sau
chiến tranh, bộ mặt của hai nửa đất nước đã hoàn toàn khác biệt. Cho tới trước
năm 1961, cứ năm người Đông Đức thì có một người phải chạy trốn sang Tây
Đức để tìm cơ hội đổi đời. Tổng cộng gần 3,5 triệu người đã ra đi. Nếu tiếp tục
đà đó, Đông Đức sẽ chẳng còn ai để “tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Nikita Khrushchev, lãnh đạo
Đông Đức thời bấy giờ, gọi Tây Berlin là một “cục xương trong cổ họng”. Khi gặp
Kennedy ở Vienna vào mùa xuân năm 1961, Khrushchev yêu cầu tổng thống Mỹ ký thỏa
thuận hạn chế người phương Tây đến Tây Berlin. Kennedy đáp lại yêu cầu này bằng
việc tăng cường quân lực, và tuyên bố thẳng thừng trên truyền hình rằng tấn
công Tây Berlin đồng nghĩa với tấn công nước Mỹ.
Chưa đến một tháng sau lời
thách thức đó, vào đêm ngày 13/8/1961, những hàng rào bí mật đầu tiên được dựng
nên ở Berlin. Người dân phía Đông của thành phố này thức dậy và bỗng nhiên thấy
mình không còn được tự do sang phía bên kia như trước. Hàng rào nhanh chóng được
thay bằng tường bê tông, rồi được củng cố bằng hệ thống tháp canh cẩn mật, thêm
vào những bãi mìn ở khoảng phân cách, và các khẩu súng máy được lắp tự động sẵn
sàng nhả đạn vào những ai dám bỏ trốn. Các bức tường cũng được dựng lên chia cắt
hai phần Đông và Tây của nước Đức. Tây Berlin bị cô lập, trở thành một hòn đảo
trên đất liền.
Hai năm sau, vào tháng
6/1963, John F. Kennedy đến thăm “hòn đảo” này. Việc tận mắt chứng kiến bức tường
Berlin khiến ông tức giận. Ông quyết định thể hiện thái độ bằng một bài diễn
văn.
John F. Kennedy được
cho là đã tự chắp bút bài diễn văn để đời này. Ông gọi Tây Berlin là
tiền đồn của tự do, còn bức tường Berlin là tội ác của chế độ cộng sản. Ông mạnh
mẽ dự báo rằng bức tường đó sẽ sụp đổ, nước Đức sẽ thống nhất, và dân chủ sẽ
lan ra khắp Đông Âu.
Kennedy mở đầu bài diễn
văn với việc dùng lại một điển tích từ thời kỳ La Mã.
“Hai nghìn năm trước, tuyên ngôn tự hào nhất là
‘Civis Romanus sum’ (Tôi là công dân La Mã). Ngày nay, trong thế giới tự do,
tuyên ngôn tự hào nhất là ‘Ich bin ein Berliner!’ (Tôi là người Berlin).”
Và ông kết thúc nó bằng
cách lặp lại chân lý của thời hiện đại.
“Tất cả những con người tự do, cho dù sống ở đâu,
cũng đều là công dân của Berlin, và vì vậy, với tư cách một người tự do, tôi tự
hào được nói: Tôi là người Berlin.”
Đám đông ở “hòn đảo”
Berlin đã hò reo vang dội khi nghe những lời cuối. Một đám đông
khác cũng đã đứng dậy vỗ tay không ngớt hồi đầu tháng Chín ở một đảo quốc châu
Á nhỏ bé.
Lịch sử lặp lại, gần 60
năm sau.
Tiệp Khắc – Những quá lai nhân
Với Đài Loan, Tiệp Khắc
là những “quá lai nhân”. Từ này có ý chỉ những người từng trải qua điều mà ai
đó đang trải nghiệm.
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/09/54776744_303.jpg
Các nghị sĩ Đài
Loan đứng dậy tán thưởng bài phát biểu của Milos Vystrcil hôm 1/9/2020. Ảnh:
Reuters
Khi tin về việc Chủ tịch
Thượng viện nước Cộng hòa Czech Milos Vystrcil dẫn đầu một đoàn 90 người đến
thăm Đài Loan, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã ngay lập tức gọi đây là hành động
“đáng khinh bỉ” và cảnh cáo cá nhân Vystrcil sẽ “phải trả giá đắt” cho việc làm
này.
Đáp lại lời đe dọa,
Vystrcil khẳng
khái trả lời “bạn
không thể chấp nhận trở thành đầy tớ của người khác, vì nếu bạn làm vậy, chỉ cần
vâng phục một lần, bạn sẽ cúi đầu thần phục mãi mãi”.
Những quan chức Bắc Kinh
cả đời (giả vờ) cúi đầu trước lý tưởng cộng sản có lẽ đã không học kỹ lịch sử
trước khi quen thói phát biểu theo kiểu “chiến lang” xưa nay.
Cộng hòa Czech, tiền thân
là đất nước Tiệp Khắc, không hề xa lạ với cộng sản và độc tài.
Sau Thế chiến II, người
dân Tiệp Khắc đã sống hơn 40 năm dưới ách cộng sản. Khi họ quyết tâm thực hiện
các cải cách tự do vào giai đoạn ngắn ngủi được gọi là Mùa xuân Prague vào
năm 1968, Liên Xô đã ngay lập tức đưa quân vào xâm lược, dập tắt những hạt mầm
dân chủ mới hé mở.
Người Tiệp Khắc phải chờ
đến 20 năm sau mới có thể thực sự lật đổ chế độ cộng sản độc tài với cuộc Cách
mạng Nhung vào cuối năm 1989, trong làn sóng các nước Đông Âu cùng bừng tỉnh
thoát ra khỏi khối xã hội chủ nghĩa.
Tiệp Khắc cũng có lý do để
thấu hiểu hoàn cảnh bị cô lập hiện tại của Đài Loan.
Trước khi Thế chiến II
bùng nổ, Tiệp Khắc trở thành nạn nhân bị các cường quốc châu Âu bỏ rơi. Năm
1938, Anh và Pháp đồng lòng ký Thỏa thuận Munich với
Đức quốc xã vào năm 1938, chấp nhận buông tay để Đức chiếm lấy Tiệp Khắc để hy
vọng có thể “chung sống hòa bình” cùng Hitler.
Đài Loan cũng trở thành nạn
nhân của chính sách xoay trục của Mỹ và phương Tây vào đầu thập niên 1970, khi
các cường quốc này đồng lòng bắt tay với chế độ cộng sản Bắc Kinh và gạt Đài
Loan ra khỏi Liên Hiệp Quốc. Dù là một quốc gia có chủ quyền lẫn thực quyền,
Đài Loan không được công nhận trên bản đồ thế giới.
Cả Tiệp Khắc lẫn Đài Loan
đều chuyển mình thành những thể chế dân chủ tự do vào cùng thời điểm đầu thập
niên 1990, và các cuộc vận động dân chủ ở hai nước này đều do lực lượng sinh
viên dẫn đầu.
Trong bài phát biểu đầu
tiên ở Đài Loan tại Đại học Chính trị Quốc gia (National Chengchi University)
hôm 31/8, Milos Vystrcil dành lời đầu tiên để xin lỗi vì đã “đến trễ”. Ông tạ lỗi
vì trong suốt 16 năm qua, kể từ khi lãnh đạo cuối cùng của Czech đến thăm Đài
Loan, chưa có Chủ tịch Thượng viện nào ghé thăm đảo quốc này.
Người tiền nhiệm của ông,
Jaroslav Kubera, vốn đã có kế hoạch viếng thăm Đài Loan, bất chấp sức
ép dữ dội từ phía Trung Quốc. Khi Kubera đột ngột qua đời vào tháng
1/2020, ai cũng tưởng Bắc Kinh đã đạt được ý định.
Nhưng Milos Vystrcil đã
không chỉ thực hiện đúng kế hoạch dang dở của người đồng nghiệp, ông còn làm mạnh
mẽ hơn. Trong bài phát biểu trước Quốc hội Đài Loan, ông thắp lại ngọn lửa
Berlin năm nào với việc nhấn mạnh từng tiếng cuối cùng “tôi là người Đài Loan”
bằng tiếng Phổ thông địa phương, khiến cả hội trường đứng dậy vỗ tay vang dội.
Ngọn lửa tự do của Berlin
vào những năm 1960 giờ đây đang cháy sáng ở đảo quốc 23 triệu dân.
Đài Loan: “WHO can help?
Taiwan.”
Trong đại dịch Covid-19
hoành hành khắp thế giới, Đài Loan trở thành một trong những điểm sáng nổi bật.
Nước này thành công trong
việc kiểm soát dịch bệnh bằng những biện pháp ngăn chặn quyết liệt từ đầu, đồng
thời vẫn giữ được tính minh bạch, công bằng, không vi phạm các tiêu chuẩn dân
chủ, nhân quyền. Cách ứng phó của chính quyền được tuyệt đại đa số người dân ủng
hộ.
Nỗ lực của Đài Loan càng
đáng nể hơn khi biết rằng trong suốt nhiều thập niên qua, họ bị các tổ chức quốc
tế như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) “bỏ xó”, không cho tham gia làm thành viên,
thậm chí cả tư cách quan sát viên cũng bị gạt đi. Dưới áp lực của Bắc Kinh, Đài
Loan không ngừng bị cô lập trên trường quốc tế.
Thông điệp “Đài
Loan có thể giúp đỡ” xuất hiện tại Times Square, New York ngày 15/9/2020 trong
lúc Kì họp Đại hội đồng Liên Hợp Quốc diễn ra ở thành phố này. Ảnh: Văn phòng
Kinh tế & Văn hoá Đài Bắc ở New York.
Nhưng trong
khi Trung Quốc giấu giếm thông tin dịch bệnh từ đầu để rồi khiến nó bùng phát
và lan rộng khắp thế giới, thì một Đài Loan bị bỏ rơi lại trở thành nơi
để nhiều nước hướng về để học hỏi cách chống dịch.
Đây cũng là thông điệp
xuyên suốt trong gần 30 năm kể từ khi đảo quốc này chuyển mình thay đổi: một
nước dân chủ tự do Đài Loan trái ngược hoàn toàn với một nước
cộng sản độc tài Trung Quốc.
Bắc Kinh xây “bức tường lửa
vĩ đại” để ngăn cấm người dân của mình tiếp cận thông tin bên ngoài, Đài Loan
khuyến khích và tạo điều kiện cho người dân trong lẫn ngoài nước tiếp thu mọi
nguồn tri thức của nhân loại.
Bắc Kinh dập tắt mọi ý kiến
bất đồng, dùng đủ loại áp lực và bạo lực man trá để bịt miệng người dân, Đài
Loan lại xây dựng một xã hội rộng mở, trân trọng mọi cuộc thảo luận công khai
và ý kiến chất vấn chính quyền.
Bắc Kinh xem việc người
dân có hiểu biết và tham gia vào chính trị là thứ đáng sợ nhất, Đài Loan lại chủ
động xây dựng một nền “chính trị bình dân” để mọi người dân đều có thể tham gia
và thực hiện quyền lợi cơ bản của một người tự do.
Bắc Kinh đi khắp nơi để rải
“bẫy
nợ”, Đài Loan lại chìa tay ra với thế giới nói: “Tôi có thể giúp đỡ”.
Việc xây dựng cho mình một
trong những thể chế dân chủ tự do nhất thế giới giúp cho Đài Loan, dù cho cùng
chủng tộc lẫn ngôn ngữ, vẫn hoàn toàn tách biệt khỏi Trung Quốc đại lục. Thể chế
ấy giúp đảo quốc nhỏ bé này không những sống khỏe mà còn sống mạnh, bất chấp
hàng ngàn quả tên lửa từ đại lục luôn nhắm thẳng vào mình.
Sự đối lập với một thể chế
độc tài khiến cộng đồng quốc tế, đứng đầu là các cường quốc phương Tây, không
ngại hợp tác làm ăn với Đài Loan, chia sẻ các nghiên cứu khoa học, phát kiến kỹ
thuật, cùng những vũ khí phòng vệ tối tân nhất.
Thế giới có thể yên tâm
làm việc với Đài Loan vì biết rằng chính quyền nơi đây không giống kiểu chính
quyền găng-xtơ nuốt lời của Bắc Kinh. Các doanh nghiệp nơi này chịu ràng buộc bởi
hệ thống pháp luật minh bạch theo quy chuẩn quốc tế, thay vì một hệ thống bưng
bít tối ưu hóa cho tham nhũng như ở đại lục.
Đài Loan có thể khiến thế
giới yên tâm vì họ luôn xác lập rõ ràng những giá trị mà mình tôn trọng và chia
sẻ: dân chủ và tự do, nhân quyền và tiến bộ.
Việt Nam – Đi đâu trước ngã ba đường?
Trong một bài trả lời phỏng
vấn gần đây, khi bàn về cục diện thế giới hiện tại, Thứ trưởng Quốc phòng Việt
Nam Nguyễn Chí Vịnh đã khẳng định “Không ai và không nước nào có thể bắt Việt
Nam phải chọn bên vì chúng tôi độc lập, tự chủ, giành và giữ độc lập bằng sức của
mình”.
Theo ông, những người đặt
câu hỏi chọn phe đó đều phải đồng tình trước “lý lẽ không chối cãi được” này.
Đó không phải là quan điểm
của cá nhân ông Vịnh. Những lãnh đạo chính quyền Việt Nam hiện tại đã nhiều lần
khẳng định lập trường và luận điệu tương tự.
Chỉ cần đọc lại một chút
tài liệu lịch sử (chân thực), ai cũng có thể thấy “lý lẽ không thể chối cãi được”
này thiếu cơ sở thực tế đến mức nào. Chính quyền Việt Nam ngày nay được dựng
nên nhờ những người làm cách mạng đã đứng về phe cộng sản ngay từ đầu, và nhận
nguồn viện trợ to lớn từ Trung Quốc và Liên Xô trong chiến tranh.
Nhưng nếu bỏ qua quá khứ,
nhìn vào thực tế hiện tại thì người Việt vẫn có đầy đủ lý do để nghi ngờ vào
“lý lẽ” mà chính quyền đưa ra.
Chính quyền Bắc Kinh chưa
bao giờ từ bỏ dã tâm thôn tính toàn bộ biển Đông, bất chấp luật pháp quốc tế. Cộng
đồng quốc tế đang ngày càng đoàn kết trước chính sách bắt nạt và những chiêu
trò gian lận của Bắc Kinh. Các quốc gia phương Tây, cùng với Nhật Bản và Ấn Độ,
đang nỗ lực hình thành những liên minh đối trọng hướng đến mục tiêu không còn
phụ thuộc vào thị trường tỷ dân của đại lục.
Trước áp lực gây hấn của
Trung Quốc, Việt Nam đã phải bồi
thường hàng tỷ USD cho các công ty dầu khí nước ngoài bị buộc phải rút
đi, trong khi vẫn chưa có bất kỳ biện pháp khả dĩ nào đối phó.
Trong bối cảnh đó, việc vẫn
lớn tiếng tuyên bố trung lập là một động thái cực kỳ khó hiểu của chính quyền
Việt Nam, nhất là xét đến những thiệt hại mà đất nước đang gánh chịu trước sức
ép của ngoại bang.
Chiến hạm Trung Quốc
tập trận gần quần đảo Hoàng Sa năm 2019. Một cuộc tập trận tương tự cũng vừa diễn
ra vào tháng 8/2020. Ảnh: AFP.
Khi Bắc Kinh buông lời dọa
nạt Milos Vystrcil về việc dám đến thăm Đài Loan, không chỉ chính quyền Cộng
hòa Czech mà khắp châu Âu, từ lãnh đạo Pháp tới quan chức Đức, đều lên tiếng thẳng
thừng với Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị ngay khi ông đang công du
các nước này. “Ở đây không có chỗ cho thái độ dọa nạt kiểu đó”, người
châu Âu đồng thanh.
Châu Âu vẫn chưa quên bài
học của Thế chiến II, khi các cường quốc vì muốn nhắm mắt sống yên với phát xít
Đức mà đã lựa chọn thứ “hòa bình giả tạo” – một lựa chọn mà Winston Churchill
đã ngay lập tức vạch
trần. Ông nói, “Các anh có lựa chọn giữa chiến tranh và sự nhục nhã. Các
anh lựa chọn nhục nhã, và rồi các anh vẫn sẽ có chiến tranh.”
Các lãnh đạo
cộng sản Việt Nam có lẽ cần phải học lại rất nhiều bài học lịch sử, từ những
trang sách không bị kiểm duyệt, trước khi nghĩ đến việc thuyết phục người dân.
Và không chỉ
có các quan chức phải học.
Milos Vystrcil trong chuyến
thăm Đài Loan đã chia sẻ, rằng
đất nước ông giành được dân chủ và tự do vào cuối năm 1989 không phải nhờ vào
việc đa số người dân đứng lên nổi dậy lật đổ chính quyền. Ngược lại, nền dân chủ
và sự tự do đó có được bất chấp việc đại đa số người dân không
đứng lên biểu tình phản đối chế độ độc tài.
Đa số họ, theo lời
Vystrcil, vẫn đi làm, vẫn xếp hàng nhận hàng hóa phân phát, vẫn vào rạp xem những
bộ phim tuyên truyền của Xô Viết. Họ vẫn bất mãn, vẫn biết mình mất tự do,
nhưng lựa chọn giữ im lặng, lựa chọn đi quán bar uống bia quên sầu thay vì lên
tiếng đòi quyền lợi của mình. Họ sợ lên tiếng, sợ biểu tình, sợ thay đổi, sợ chống
lại chế độ. Milos Vystrcil rõ hơn ai hết, vì bản thân ông là một người trong
đám đông sợ hãi đó.
Vì sao đám đông sợ hãi mà đất nước vẫn có dân chủ, người dân cuối cùng
vẫn có tự do? Đó là vì những thiểu số dám lên tiếng luôn tồn tại.
Đài Loan không phải không
có những người muốn từ bỏ đấu tranh, “làm hòa” với Bắc Kinh để được yên ổn. Những
người như vậy thậm chí còn rất đông.
Cựu Tổng thống Đài Loan
Mã Anh Cửu là một người thuộc nhóm này. Những tuần qua, ông Mã đã liên tục gây
sóng gió khi có những tuyên bố dội nước lạnh vào sĩ khí của quốc dân, khi lúc
thì cảnh cáo để chiến tranh với Trung Quốc xảy ra thì “một trận là xong hết”,
lúc lại tỏ thái độ nghi ngờ nếu có chuyện “nước Mỹ sẽ không đến đâu”.
Vô tình hay cố ý, chính
quyền Mỹ trong thời gian qua lại liên tục có những động thái thắt chặt quan hệ
với Đài Loan, từ việc cho lãnh đạo cấp cao viếng thăm, đến việc giải
mật hồ sơ lịch sử, chứng minh rằng nước Mỹ trong suốt nhiều thập niên
qua luôn
đứng về phía Đài Loan, và họ “lúc nào cũng ở đây chứ không đi đâu”.
Nếu những người Đài Loan
yêu tự do không được cất tiếng nói và không có địa vị, ắt hẳn là không chỉ Mỹ
mà những nước châu Âu và cả thế giới đã quay lưng lại với đảo quốc này từ lâu.
Nơi nào, và chừng nào những
con người dũng cảm đó còn được trân trọng và bảo vệ, nơi đó luôn còn hy vọng,
cho dù là đứng trước miệng cọp trong nước hay quái vật ngoại bang.
Và ngày nào Việt Nam vẫn còn những con người như vậy,
ngày đó ta vẫn có quyền hy vọng, một lúc nào đó, những người tự do trên thế giới
sẽ dõng dạc nói bằng tiếng Việt.
“Tôi là người
Việt Nam.”
No comments:
Post a Comment