12/04/2019
Sau bao nhiêu lần đi vượt biên không thành, lần sau
cùng chuyến đi của gia đình tôi cũng vượt qua được cửa đại. Nhưng máy thuyền của
chúng tôi bị ngưng nửa chừng, lúc vẫn còn nhìn thấy bến bờ của một hòn đảo thuộc
địa phận Việt Nam. Tin rằng thế nào cũng bị bắt rồi bị tù đầy, nỗi đe dọa và
tuyệt vọng xâm chiếm mọi người trên thuyền. May mắn thay máy được sửa và chạy
trở lại gần ba tiếng sau đó. Nhưng sau đó bão và sóng lớn trong suốt chuyến đi
đến nỗi con thuyền có thể bị tan thành từng mảnh và chìm đắm dưới đại dương bất
cứ lúc nào. Sau cùng chúng tôi cũng đến được bến bờ tự do. Trong gần mười năm đầu
tôi vẫn thỉnh thoảng nằm mơ tưởng mình bị bắt, bị bắn hoặc bị giết. Khi giật
mình tỉnh giấc tôi mới biết đó là cơn ác mộng!
Những người bạn không phải Việt Nam của tôi, mỗi khi
nghe tôi kể chỉ một phần nhỏ về hành trình tìm tự do của mình, đều kinh ngạc và
đều yêu cầu tôi viết sách. Nhưng những chấn thương trong cuộc đời tôi, nếu có,
cũng rất nhỏ nhoi, không đáng kể, so với bao người Việt Nam khác. Có những gia
đình đi vượt biên mà cuối cùng không còn ai sống sót cả. Cũng có những người
còn sống sót sau các chuyến đi hãi hùng nhưng mọi sự sau đó không còn bình thường.
Cuộc đời của họ mãi mãi về sau là những chấn thương, và những ám ảnh bởi hậu chấn
thương.
Thế nào là chấn thương (trauma)? Theo tự điển Oxford
thì chấn thương là một kinh nghiệm sầu não hoặc rúng động. Nhà tâm lý điều trị
(clinical psychologist) Ana Nogales cho rằng chỉ có những người trãi nghiệm chấn
thương mới biết được cảm giác ra sao. Nó là kinh nghiệm độc nhất và rất khó để
có thể xóa nhòa từ tâm trí một người, kéo dài nhiều năm với cường độ cảm xúc lớn
lao. Ts Nogales cho rằng chấn thương là hệ quả của nhiều tình huống khác nhau,
từ những người đã trãi qua chiến tranh, nạn nhân của bạo hành và thảm nạn, hoặc
chỉ là nhân chứng của một hành động mà làm cho họ khiếp sợ cực độ.
Ts Diane Roberts Stoler Ed.D., nhà tâm lý thần kinh có 35 năm kinh nghiệm chữa trị chấn
thương, cho rằng chấn thương có thể bị gây ra bởi sự mất mát đột ngột của một
người mình thương yêu, hoặc vì bị hãm hiếp, ngược đãi, bỏ bê, mất nhà, tai nạn
xe, bạo lực gia đình, thiên tai, bi kịch hay bệnh tật cá nhân, hoặc bất kỳ loại
sự kiện rúng động nào khác [2]. Nó sẽ xảy ra cho phần lớn, nếu không phải tất cả,
chúng ta, nếu sống đủ lâu, và không ai miễn nhiễm cả. Tôi biết những người được
gia đình thương yêu, bảo bọc, không một lời nói hay hành động gây tổn thương,
thế nhưng khi ra ngoài đời gặp phải môi trường thực tế khác với gia đình, hoặc ở
chỗ làm, thì khi bị phê bình, khiển trách, dù chỉ là lời nói nhẹ nhàng thôi mà
họ còn chịu không nỗi, rồi trở nên đau khổ và trầm cảm. Nhưng dần dần họ cũng
quen và khả năng chịu đựng cũng gia tăng.
Những cơn ác mộng, như đã xảy ra với tôi, là một
trong vô số phản ứng khác nhau đối với chấn thương. Ts tâm lý Seth J. Gillihan
liệt kê 21 loại phản ứngkhác nhau khi bị chấn thương, trong đó có
ác mộng (tuy không phải là tất cả) [3]. Một dạng là tái trãi nghiệm chấn thương
này: đầu óc và trí nhớ cứ trở lại như cuốn phim không chấm dứt; ác mộng; thoáng
quay lại, nhất là khi có sự kiện hay dấu hiệu tương tự diễn ra. Dạng khác là phản
ứng đầy cảm xúc: lo sợ và lo lắng; giận dữ; buồn phiền; cảm thấy tội lỗi; không
cảm giác (numb). Dạng nữa là cố tránh những điều liên quan đến chấn thương: cố
không muốn nghĩ về biến cố đó; tránh những gì liên quan đến biến cố đó. Dạng nữa
là những thay đổi sâu sắc về cách nhìn của mình về thế giới và chính mình: khó
tin tưởng được ai; tin rằng thế giới là cực kỳ nguy hiểm; đổ lỗi cho chính mình
về hậu quả, nhất là khi nghĩ rằng lẽ ra mình có thể giúp tránh đi bi kịch đó;
nghĩ rằng lẽ ra mình nên xử lý chấn thương khác đi; nhìn thấy mình yếu đuối hoặc
bất xứng; chỉ trích chính mình về phản ứng đối với chấn thương. Dạng khác nữa
là hệ thần kinh rất hiếu động: cảm thấy lúc nào cũng đề phòng; cảm thấy đe dọa
khắp nơi; dễ giật mình; khó ngủ; và mất hứng về tình dục, nhất là khi mình là nạn
nhân của vụ sách nhiễu tình dục.
Một khi chấn thương quá lớn, quá khả năng bình thường
của một người để đối phó, và lại kéo dài một thời gian dài, nó có khả năng đưa
đến bệnh Rối loạn Căng thẳng Hậu Chấn thương (Post-Traumatic Stress
Disorder/PTSD), một loại chấn thương tâm lý không phải không điều trị được nhưng
mất rất nhiều thời gian để hồi phục. Triệu chứng của PTSD là rất dễ bị trở lại,
bởi nó đã ăn sâu vào tâm khảm của nạn nhân, dễ bị kích hoạt, muốn tránh xa những
gì có thể gợi lại quá khứ đau thương này, dễ bị kích thích đưa đến mất ngủ và tập
trung v.v… Nó làm cho người ta luôn lo lắng, bồn chồn, hoảng loạn, không ngưng
nghỉ, cảnh giác cao độ v.v…
Nguyên do? Một trong các chức năng quan trọng nhất của
bộ óc con người là đối phó với mối đe dọa để sống còn. Sợ hãi có khi quá chủ
quan, chưa được đối chiếu và cân nhắc, lắm khi chưa phải nguy hiểm đến tính mạng
hay manh tính sống còn, mà hốt hoảng cả lên. Sự sợ hãi vô lý làm cho con người
mất chủ động và mất lý trí! Khi gặp đe dọa, bộ phận Amygdala trong não được
kích hoạt, tạo phản ứng chiến đấu, bỏ chạy hoặc cứng đơ (fight, flight or
freeze). Nhìn thấy đe dọa, mang tính hoàn toàn cảm xúc, phản ứng này sẽ kích hoạt
hệ thống thần kinh tự trị của mình, không cần phải mất thời gian suy nghĩ, vì sự
sống còn có khi chỉ là tích tắc, phụ thuộc vào khả năng tìm cách ra khỏi tình
huống nguy hiểm đối diện. Tuy nhiên, nếu được hướng dẫn điều trị để biết tập
luyện, biết ý thức và chủ động được cảm xúc của mình, và tìm cách sử dụng bộ
não đằng sau trán gọi là pre-frontal cortex/PFC, thì dần dần nạn nhân sẽ điều
khiển được cảm xúc, chinh phục được sợ hãi. PTSD là trường hợp mà PFC không còn
khả năng chủ động được tình huống, để cho chấn thương tác động lên Amygdala lấn
chiếm bộ não, làm mất đi sự điều khiển đối với cảm xúc của một người.
Dù nguyên nhân gây ra chấn thương là gì đi nữa thì
các cuộc nghiên cứu đều đưa đến kết luận rằng PTSD liên quan đến các hoạt động
của phần não mà xử lý cảm xúc nhiều hơn, như lo sợ, và ít sử dụng phần não xử
lý về lý trí, như lý luận. Tóm lại, đối với những người bị chấn thương, và nặng
hơn, PTSD, thì phần não đã thật sự bị hư hại về cấu trúc, ít hay nhiều tùy thuộc
từng người và từng trường hợp chấn thương. Và nếu bị thường xuyên và lâu dài,
ngay cả khi lúc còn nhỏ, thì tác hại về sau sẽ vô cùng lớn lao và khó điều trị.
Chẳng hạn, một con chó thường xuyên bị một người dùng cuốn báo liệng vào đầu
nhiều lần, thì sau này nó nhìn thấy tờ báo cuốn là hốt hoảng lên, mặc dầu người
chủ mới của nó không hiểu nguồn gốc sợ từ đâu. Con người cũng vậy, khi từng bị
đánh đập, mắng nhiết, khủng bố tinh thần, thì từ âm thanh, cử chỉ, cây roi cho
đến bất cứ biểu tượng nào gắn liền với sự hành hạ đó, dù có trở lại mấy chục
năm sau, thì nạn nhân cũng sẽ không quên. Đó là lý do vì sao người ta có thể
tha thứ cho người mình thương yêu đã làm mình tổn thương, nhưng họ không thể
quên, dù rất muốn đi nữa. Quên là điều rất khó, trừ phi bị lãng trí, bộ nhớ bị
hỏng. Bộ óc con người được thiết kế để tồn tại, để tránh tối đa đe dọa và hiểm
nguy.
Trong những năm qua, tôi có dịp làm việc trực tiếp
cũng như gián tiếp với nhiều người đã từng trãi qua những chấn thương khủng khiếp
trong đời họ. Tuy không phải là một nhà tâm lý và không được đào tạo chuyên môn
trong lĩnh vực này, tôi đã được gửi đi đào tạo các khóa ngắn hạn về lĩnh vực
này, và cũng tự mình tìm hiểu thêm qua sách vở, báo chí và kinh nghiệm thực tiễn.
Lý do tôi được gửi đi đào tạo là vì nếu tôi tiếp xúc thường xuyên và lâu dài với
những người từng trãi nghiệm chấn thương, tôi vẫn có thể bị chấn thương gián tiếp
(vicarious trauma). Nó tích tụ dần dần, mà nếu không để ý và kiểm soát bằng ý
thức, đến một lúc nào đó chính mình bị vạ lây. Nó gia tăng căng thẳng và thay đổi
tính tình, rồi thay đổi suy nghĩ và hành động của mình. Một người làm việc
trong tình huống này cần phải ý thức và cảnh giác để không bị rơi vào trạng thái
căng thẳng và mất chủ động. Tóm lại, chúng ta cần ý thức tập luyện và vận dụng
phần não lý trí PRC để điều khiển cảm xúc và kiểm soát mối đe dọa một cách thực
tế, đừng để Amygdala cướp điều khiển.
Qua kinh nghiệm bản thân, qua lý thuyết và những
nghiên cứu chuyên môn nghiêm túc của các học giả uy tín, và qua các bài học lịch
sử, tôi nhận ra được ba bài học.
Một, không một ai miễn nhiễm từ chấn thương cả. Những
người được bao bọc và che chở đến mấy thì một lúc nào đó, khi chấn thương xảy
ra, họ sẽ dễ suy sụp và đổ gẫy hơn là những người được hướng dẫn, cung cấp
thông tin và nâng đỡ, đặc biệt từ nhỏ. Vì thế điều quan trọng là xây dựng một
thể lực cường tráng, một tinh thần vững chắc, trong đó kiên trì và không ngại
thất bại là chìa khóa. Khi càng tìm hiểu về những lãnh đạo quốc gia lỗi lạc của
Hoa Kỳ, như Abraham Lincoln, Theodore Roosevelt, hay Franklin Roosevelt, họ đều
trãi qua nhiều chấn thương, cũng bị khủng hoảng tinh thần, bị trầm cảm một thời
gian dài, và từ từ vực dậy từ những chấn thương lớn lao đó. Như đã chia sẻ
trong bài trước, Leigh Sales và John Roberts (từng bị đột quỵ hai lần, năm 1993
và 2007) cũng đều trãi qua chấn thương lớn trong đời. Tất cả những trãi nghiệm
này giúp cho họ mạnh mẽ khi hiểu được yếu điểm của mình, và qua đó giúp cho họ
có sự cảm thông và đồng cảm với những công dân bình thường trong xã hội. Điều
đó làm cho họ kiên trì hơn thay vì yếu đuối. Tình thương và đồng cảm chính là sức
mạnh.
Hai, một người chưa từng trãi, chưa nếm mùi cay đắng,
chưa từng thất bại, chưa ở trong địa vị người khác, thì khó thể nào hiểu được
những gì người đó đã trãi qua, những cảm nhận và những ảnh hưởng đến tâm lý của
họ. Không có sự cảm nhận thì khó có sự thông cảm, khoan nói đến đồng cảm. Cảm
thông (sympathy), kể cả thương hại người khác, vì thấy họ đau khổ,
hoạn nạn, là mức độ thấp. Đồng cảm (empathy), là biết đặt mình vào địa vị của
người khác để thấu hiểu, để biết những cảm xúc họ trãi qua, để từ đó chia sẻ những
cảm xúc và buồn phiền của họ [4]. Bài phát biểu của Tổng Chánh án John Roberts,
như đề cập trong bài trước, hoàn toàn có mục đích chia sẻ với các em học sinh
các giá trị nền tảng để họ phát huy tinh thần khiêm tốn và khả năng đồng cảm,
và để các em sau này trở thành những công dân hữu ích cho xã hội, chứ không phải
là những cá nhân ích kỷ, thủ đoạn và sẵn sàng chà đạp lên người khác để leo lên
đỉnh cao danh vọng.
Ba, khi biết được nguyên lý rằng tất cả chúng ta đều
là con người, đều dễ bị tổn thương (vulnerable), thì sự đoàn kết hay thống nhất
cho mục tiêu chung dễ đạt được. Bởi chúng ta hiểu rằng đến một lúc nào đó, lúc
mà ai cũng đều có những chấn thương khi trãi đời, và ai cũng bằng da bằng thịt,
cũng đạn bắn xuyên thủng, thì ai cũng như nhau. Như thế, thay vì phân biệt đối
xử, thay vì mạt sát nhau vì khác biệt quan điểm chính trị hay tôn giáo, chẳng hạn,
thì chúng ta nhận ra rằng mình không nên đối xử với người khác những gì mà mình
không muốn bị đối xử. Cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh, dựa trên pháp luật
chứ không phải sự tùy tiện của con người có lúc này lúc kia (the rule of law,
not of man), thì rất cả mọi người hôm nay và các thế hệ mai sau đều được hưởng.
Còn không thì quyền lực rơi vào tay một thiểu số, và mọi tai họa, hư hỏng, tham
nhũng, từ đó mà ra.
Có được sự cảm thông, hoặc cao hơn, sự đồng cảm,
chúng ta dễ dàng chấp nhận khác biệt, và sẵn sàng lên tiếng bảo vệ cho những
người bị phân biệt đối xử, bị luật pháp ngược đãi, hoặc bị đẩy ra ngoài lề xã hội.
Tinh thần tương thân tương trợ, có qua có lại, hỗ tương, tiếng Anh là
reciprocity, chính là nền tảng của những xã hội dân chủ phát triển bền vững. Mặc
dầu trên bình diện cá nhân ai cũng có vẻ tính toán, nhưng nhìn kỹ thì tinh thần
công dân đối với trách nhiệm chung được duy trì và phát huy tối đa. Bởi phần lớn
các công dân trong xã hội này hiểu rằng khi một tiếng nói, một bi kịch, một
chuyện phi lý bất công xảy ra cho một người mà luật pháp không bảo vệ được họ,
thì xác suất xảy ra cho tất cả mọi người khác cũng rất cao, là nguy cơ dành chỗ
dẫn đến nạn cường quyền.
Mỗi cá nhân, và mỗi dân tộc, trong suốt chiều dài lịch
sử, đều trãi qua những chấn thương rất lớn, có khi quá lớn, để có thể vượt qua.
Chiến tranh, nhất là nội chiến, là một trong các chấn thương lớn như thế. Nhưng
sau mỗi chấn thương, dù đó là ngoại xâm hay nội chiến, vấn đề quan yếu là lãnh
đạo quốc gia chủ trương ra sao, chính sách và hành động cụ thể là gì, để hàn gắn
vết thương của dân tộc hầu xây dựng lại tiềm năng quốc gia cho mục tiêu phát
triển, cho tương lai của đất nước và các thế hệ mai sau, thay vì vẫn cứ tiếp tục
các chính sách phân biệt đối xử với tâm lý hận thù không dứt?
Một chính quyền thật sự quan tâm đến vận nước lẽ ra
phải làm sao toàn dân tộc có thể phát huy phần não lý trí Pre-frontal Cortex
thay vì chủ trương sử dụng và áp đặt phần não cảm tính Amygdala lên họ!
Phạm
Phú Khải
Úc Châu, 11/04/2019
---------------------
Tài
liệu tham khảo:
1. Ana Nogales, “Trauma”, Psychology Today, 19 February 2014.
2. Diane Roberts Stoler Ed.D, “Trauma and PTSD: More Common Than You Think”, Psychology
Today, 18 March 2019.
3. Seth J. Gillihan, “21 Common Reactions to Trauma”, Psychology Today, 7
September 2016.
4. Neel Burton, “Empathy Vs Sympathy”, Psychology Today, 19 February 2014.
Diễn đàn Facebook
No comments:
Post a Comment