Nguyễn Hải Hoành
Posted on 11/12/2017 by The Observer
Trung Quốc thời hiện đại có một học giả rất nổi tiếng
là Quý Tiễn Lâm (季羡林Ji Xian-lin, 1911-2009), người được dư luận chính thống nước này tôn vinh
là “Quốc học đại sư”, “Học giới Thái đẩu” (Siêu sao trong giới học thuật), “Quốc
bảo” (Báu vật của nước nhà)… Cụ Quý chủ trương đề cao nền văn hóa truyền thống
TQ, từng đưa ra thuyết “30 năm nước chảy bên Tây, 30 năm nước chảy bên Đông”,
khẳng định trong thế kỷ XXI văn hóa TQ sẽ thay thế văn hóa phương Tây trở thành
dòng chính trong văn hóa thế giới, chiếm địa vị lãnh đạo toàn cầu. Cụ còn đứng
đầu phái chống lại việc cải cách chữ Hán ở TQ và vì thế càng được những người
Hoa theo chủ nghĩa dân tộc hết lời ca ngợi.
Không lâu trước khi qua đời, cụ có nói mấy câu có
tính trăng trối về vấn đề chữ Hán. Lẽ ra chúng ta chẳng cần quan tâm chuyện ấy
nếu như ở đây cụ Quý không mang chữ Quốc ngữ Việt Nam ra làm ví dụ thuyết minh
quan điểm của mình, hơn thế lại còn nhận xét không tốt về chữ Quốc ngữ, có ý
cho rằng Việt Nam thất bại trong việc cải cách chữ viết. Nhân chuyện này, chúng
tôi đã tìm hiểu xem dư luận TQ nghĩ gì về vấn đề trên, qua đó thấy nhiều người
TQ, kể cả giới trí thức đều hiểu sai và a dua nhau nhận xét không chính xác về
ngôn ngữ cũng như các vấn đề khác của Việt Nam. Trong tình hình đó dĩ nhiên cần
phải vạch ra chỗ sai của họ.
Mấy câu trên của cụ Quý đăng trong bài viết có tiêu
đề “Cụ Quý Tiễn Lâm bàn về Quốc học” phát trên một blog. Bài ấy lập tức được
dân mạng TQ nhao nhao chia xẻ và bình luận, dấy lên một dư luận mạnh mẽ đòi phục
hồi chữ phồn thể. Một lần nữa, sự chia rẽ quan điểm của người TQ về vấn đề cải
cách chữ Hán lại bùng lên và tiếp diễn cho tới nay.
Nội dung bài blog nói trên như sau:[1]
“Chiều qua đến Y viện 301 thăm cụ Quý Tiễn Lâm. Cụ
khỏe mạnh tỉnh táo, nói nhiều lời hay ý đẹp. Khi bàn tới việc phổ cập Quốc học,
cụ nói một số ý kiến.
1- Sở dĩ nền văn minh Trung Hoa có thể kéo dài tới
ngày nay, chữ Hán có tác dụng lớn. Đọc văn cổ tất phải đọc chữ phồn thể, mọi
thông tin của văn hóa TQ đều ở trong chữ phồn thể;
2- Đơn giản hóa và ghi âm hóa chữ Hán là chủ trương
sai lầm, tổ tiên ta dùng [chữ Hán phồn thể] đã mấy nghìn năm đều không cảm thấy
bất tiện, cớ sao [khi] tới tay chúng ta thì [chữ phồn thể bị] từ bỏ? Theo đuổi
hiệu suất không phải là lý do để đơn giản hóa chữ Hán. Chữ viết của Việt Nam
sau khi được ghi âm hóa, đầu đội mũ, chân đi giày, rất nực cười. Cụ Quý chú trọng
nói về chuyện đáng tiếc gây ra bởi việc đơn giản hóa chữ Hán năm xưa, khi chữ
“hậu” trong “Hoàng hậu” [vợ vua] và chữ “hậu” trong “dĩ hậu” [về sau] bị
làm thành cùng một chữ;
3- Dùng lời văn hiện đại để dịch thư tịch văn cổ [cổ
văn kim dịch] là cách hủy diệt văn hóa Trung Hoa, [đọc văn cổ] phải đọc
nguyên văn, thêm chú thích là được;
4- “Chấn hưng quốc học tất phải nắm ngay từ lũ con
nít” – cụ đặc biệt chỉ ra, Quốc học giảng dạy cho người lớn nên khác với Quốc học
dạy cho trẻ em, phải dụng tâm suy nghĩ biên soạn giáo trình.
Các ý kiến nói trên của Quý Tiễn Lâm được đông đảo
dân TQ sôi nổi bình luận theo cả hai hướng ủng hộ và phản đối. Đáng tiếc là họ
lại không nói gì về lời nhận xét chữ Quốc ngữ Việt Nam “rất nực cười”. Có thể
vì câu đó khó hiểu, hoặc vì người TQ không biết về ngôn ngữ Việt Nam nên ngại
bình phẩm lời của một đại gia họ sùng bái hết mực.
Bởi thế trước hết chúng ta nên tìm hiểu xem câu “Chữ
viết của Việt Nam sau khi được ghi âm hóa, đầu đội mũ, chân đi giày, rất nực cười”[2] muốn nói lên ý gì? Câu này chiếm khoảng
gần 1/10 tổng số chữ Hán trong bài blog nói trên.
Theo chúng tôi, câu này nên hiểu là: Việt Nam sau mấy
nghìn năm dùng chữ Hán (là loại chữ ghi ý) đã tiến hành cải cách chữ viết theo
hướng bỏ chữ Hán, chuyển sang dùng chữ Quốc ngữ (là loại chữ ghi âm viết bằng
chữ cái Latin ghép lại), thứ chữ abc này của Việt Nam có hình thức khác với chữ
Latin thường thấy trong Anh ngữ, Pháp ngữ… ở chỗ các từ có thêm nhiều dấu (sắc
huyền hỏi ngã nặng…) ở trên và dưới chữ, giống như chữ Latin được “đội mũ đi
giày”, trông rất buồn cười.
Ở đây chúng tôi có tham khảo nhận xét của một học giả
TQ lớp trước về chữ Quốc ngữ Việt Nam: 100 năm trước, đại học giả có ảnh hưởng
nhiều tới Quý Tiễn Lâm là Hồ Thích (1891-1962) từng nói:
Chữ viết Việt Nam hiện nay xem ra giống như chữ Pháp
bị nước mưa xối tan ra, giống như phiên bản Latin của chữ hình vuông, vừa không
thanh thoát cũng chẳng mỹ quan. Việt Nam từng dùng chữ Hán lâu dài và phát minh
ra chữ Nôm của mình, về sau chịu ảnh hưởng của thực dân Pháp mà triệt để Latin
hóa chữ viết, vì thế mà có thứ chữ “Tứ bất tượng” ([bốn thứ chẳng giống] chữ
Pháp, chữ Hán, chữ Nôm, chữ Latin).
Ở đây Tứ bất tượng còn có nghĩa là
không đâu vào đâu, chẳng ra cái giống gì.
Có lẽ họ Hồ và họ Quý nhận xét như vậy về chữ Quốc
ngữ là do họ chưa hiểu vì sao chữ Quốc ngữ phải có thêm các dấu vào phía trên,
dưới các chữ cái. Những dấu ấy thể hiện đặc điểm của tiếng Việt: đơn âm, có nhiều
âm tiết, nhiều thanh điệu. Tiếng Việt có 6 thanh điệu, vì thế chữ Quốc ngữ phải
có 5 dấu giọng thể hiện các thanh điệu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng,
ngoài ra còn có dấu thể hiện âm đọc của các chữ ă, â, đ, ô, ơ, ư. Dân ta có câu
“Ô thì đội nón, Ơ thì thêm râu” là thế. Các giáo sĩ châu Âu khi dùng chữ cái
Latin để ghi âm tiếng Việt đã sáng tạo ra 5 ký hiệu (dấu) thể hiện 5 thanh điệu
và các chữ cái có thêm dấu như â, ă, đ, ê, ô, ơ, ư. Nhờ những sáng
tạo tuyệt vời đó, chữ Quốc ngữ ghi được 100% ngữ âm tiếng Việt, thực hiện được
yêu cầu nghĩ và nói thế nào thì có thể viết đúng như thế; viết thế nào thì có
thể đọc, nói đúng như thế. Đây là một yêu cầu rất cao về tính chính xác của
ngôn ngữ, không phải tất cả các loại chữ viết trên thế giới đều có thể đạt được.
Ví dụ ở Hán ngữ, cùng một chữ có thể đọc theo mấy âm khác nhau hoặc cùng một âm
có hàng trăm chữ viết khác nhau, làm giảm tính chính xác của ngôn ngữ.
Hai vị nói trên từng học lâu năm ở phương Tây, giỏi
nhiều ngoại ngữ (cụ Quý học 8 năm ở Đức, biết 11 ngoại ngữ), quen đọc sách báo
Âu Mỹ, cho nên khi thấy chữ Quốc ngữ rặt những từ đơn âm và có nhiều dấu thêm
vào phía trên hoặc dưới chữ cái, trông như “đội mũ, đi giày” sẽ có cảm giác lạ
mắt, cho là không đẹp.
Người Việt Nam không có cảm giác ấy mà ngược lại nếu
thấy thiếu những dấu đó thì rất khó chịu, tuy rằng vẫn có thể đọc hiểu. Thực ra
các dấu này đều có thể thay bằng một chữ cái. Ví dụ dấu sắc thay bằng chữ s, dấu
huyền thay bằng chữ f… viết ở cuối mỗi từ, hoặc chữ đ viết bằng hai chữ d, chữ
ô bằng hai chữ o, chữ ă bằng aw… như cách hiện nay ta thường gõ phím máy tính.
Có lẽ do thói quen, dân ta thích viết và đọc chữ có dấu hơn.
Tiếng nói một số dân tộc châu Á cũng có nhiều thanh
điệu, vì vậy chữ viết Latin hóa của họ buộc phải thêm các dấu thanh điệu. Tiếng
phổ thông TQ có 4 thanh điệu, vì thế chữ Latin trong phương án Hán ngữ
Pinyin do Nhà nước TQ ban hành sử dụng từ năm 1958 cũng phải kèm theo 4 dấu giọng,
ví dụ [lī], [lí], [lǐ], [lì], ngoài ra các phụ âm kép như zh, ch, sh có
thể viết tắt là ẑ, ĉ, ŝ. Như vậy chữ Hán ngữ Pinyin cũng “đội mũ” ,
vì sao cụ Quý Tiễn Lâm lại chỉ chê chữ Quốc ngữ Việt Nam “rất nực cười”?
Chữ Pháp cũng dùng với tần suất không lớn một vài dấu
hệt như dấu sắc, huyền, dấu mũ (dấu hình nón) ở tiếng Việt; chữ Bồ Đào Nha có cả
dấu ngã “~”. Như vậy chữ Pháp, Bồ Đào Nha cũng “đội mũ” như chữ Việt
Nam. Lẽ nào hai học giả họ Hồ và họ Quý biết nhiều ngoại ngữ lại không để ý tới
điều đó?
Thực ra việc hai vị ấy nhận xét chữ Việt Nam kém mỹ
quan cũng không đáng quan tâm, vì đó là cảm nhận riêng của họ. Điều đáng chú ý
là Quý Tiễn Lâm dựa vào đấy để ngầm nhận xét Việt Nam cải cách chữ viết thất bại
và lấy đó làm cái cớ biện luận rằng chữ Hán chớ nên Latin hóa theo cách chữ Việt
Nam đã làm.
Đáng phê phán hơn nữa là nhiều người TQ do sùng bái
cụ Quý nên đã đồng ý với quan điểm ấy và a dua nhau phát biểu những nhận thức
sai lệch về Việt Nam và tiếng Việt. Chẳng hạn có người TQ nói chữ Quốc ngữ Việt
Nam là phương ngữ Quảng Đông (còn gọi là phương ngữ Việt粤方言) được Latin hóa, Việt Nam bỏ
chữ Hán là một sai lầm lịch sử, hoặc nói Việt Nam sau 1945 mới bỏ chữ Hán và chữ
Nôm, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu chính trị muốn độc lập “thoát Hán”. Vừa qua
nhân dịp một vài học giả Việt Nam kiến nghị cho trẻ em ta học thêm chữ Hán,
trên truyền thông TQ xuất hiện những bài viết với đầu đề đại để như “Việt Nam hối
tiếc vì bỏ chữ Hán”…
Người TQ có các nhận thức nói trên là do họ hiểu sai
về nguồn gốc dân tộc ta và về tiếng Việt. Nước ta thời cổ không
có chữ viết để chép sử, phải mượn dùng chữ Hán hai nghìn năm, trong đó hơn
nghìn năm từng là quận huyện của TQ, cho nên chính người Việt Nam cũng dễ tin
theo quan điểm của các sách sử TQ viết về nguồn gốc dân tộc ta. Nhiều người TQ
hiện nay vẫn nghĩ rằng người Việt Nam thời cổ thuộc tộc Lạc Việt, một trong các
bộ tộc ở phía Nam sông Trường Giang mà họ gọi vơ đũa cả nắm là Bách Việt,
tương tự như các tộc người Phúc Kiến, Quảng Đông, Giang Tô, v.v… Các tộc này đều
thuộc chủng tộc Hán (tỷ lệ người Hán tại ba tỉnh nói trên là 97,6%; 94,1% và
99,64%; số liệu 2015), họ chủ yếu nói các phương ngữ Mân, Việt, Ngô của tiếng
Hán. Các phương ngữ đó đều thuộc cùng một ngữ hệ Hán-Tạng, vì thế theo lẽ tự
nhiên chữ Hán có thể ghi được tiếng mẹ đẻ của các tộc này và do đó không có vấn
đề Hán hóa các tộc Bách Việt.
Thực ra dân tộc Việt Nam khác hẳn các tộc
Bách Việt về chủng tộc, về văn hóa và nhất là về ngôn ngữ. Các thành tựu khảo
cổ gần đây càng khẳng định ưu thế của giả thuyết cho rằng dân tộc Việt Nam thời
cổ là cư dân bản địa (như người Mường) chứ không phải là dân Bách Việt di cư xuống
miền Nam, như quan niệm của người TQ. Tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-khmer
trong ngữ hệ Nam Á, khác hẳn ngữ hệ Hán-Tạng, và tuyệt đối không phải là một
phương ngữ của tiếng Hán, thể hiện rõ nhất ở chỗ có nhiều âm tiết hơn và khác hẳn
về ngữ pháp; bởi vậy chữ Hán không thể nào ghi được tiếng Việt. Cho dù đã dùng
chữ Hán hai nghìn năm nhưng nước ta vẫn không bị Hán hóa như phong kiến TQ mong
muốn, và không thể có một nền văn học tiếng Việt, chỉ có một nền văn học chữ
Hán nghèo nàn (các học giả Đặng Thai Mai, Hoài Thanh…không xếp vào loại văn học
dân tộc ta). Chữ Hán chỉ được tầng lớp quan chức và trí thức Việt Nam dùng
trong công việc hành chính, giao tiếp với TQ, ghi chép sự việc, làm văn thơ
theo kiểu văn thơ TQ…, và đọc bằng âm Hán-Việt. Để xây dựng một nền văn hóa dân
tộc, tổ tiên ta đã tự sáng tạo ra chữ Nôm, và cuối cùng chấp nhận dùng chữ Quốc
ngữ do các giáo sĩ châu Âu làm ra. Cả hai thứ chữ này đều ghi âm được tiếng Việt
nhưng chữ Quốc ngữ hoàn thiện hơn.
Quá trình người Việt Nam bỏ chữ Hán chữ Nôm, chuyển
sang dùng chữ Quốc ngữ là một quá trình tự nhiên, tự nguyện, chủ yếu vì chữ Quốc
ngữ ghi được 100% tiếng Việt và dễ học, dễ nhớ, dễ viết, dễ dùng, hơn hẳn các
loại chữ tổ tiên ta đã biết. Quá trình chuyển đổi chữ viết này rất thuận lợi,
nhanh chóng thành công trên cả nước, tuy mới đầu có gặp sự phản đối yếu ớt từ một
số ít nhà Nho cổ hủ. Tất nhiên sự ủng hộ của chính quyền cai trị cũng góp phần
thúc đẩy quá trình đó. Trong thời gian ngắn, nước ta xuất hiện một nền văn hóa,
văn học nghệ thuật, báo chí tiếng Việt và phát triển rầm rộ chưa từng thấy. Nói
Việt Nam thất bại trong cải cách chữ viết là hoàn toàn sai lầm.
Rõ ràng, các giáo sĩ tham gia làm chữ Quốc ngữ như
Antonio Barbosa, Gasparo d’Amiral, Alexandre de Rhodes, Francesco de Pina,
Cristoforo Borri, Pigneau de Béhaine,…không chỉ giàu nhiệt tình tạo chữ ghi âm
tiếng Việt mà còn có kiến thức cao siêu về ngôn ngữ học, nhờ thế tuy ít người
và làm việc phân tán nhưng họ đã hoàn thành một sáng tạo vĩ đại trong lịch
sử ngôn ngữ học thế giới: lần đầu tiên dùng chữ cái Latin làm ra một loại
chữ ghi âm thành công tiếng nói của một dân tộc châu Á, tạo ra cho người Việt
Nam một hệ thống chữ viết hoàn toàn mới, Latin hóa, ghi âm chính xác 100%
tiếng Việt. Đây là món quà vô giá dân tộc ta nhận được từ nền văn minh Ki
Tô giáo trong quá trình giao tiếp văn hóa Đông Tây.
Trên thế giới không có loại chữ viết nào tuyệt đối
hoàn hảo; chữ Quốc ngữ cũng vậy. Dù sao nó thích hợp nhất với tiếng Việt. Do được
Latin hóa nên việc mã hóa chữ Quốc ngữ để đưa tiếng Việt vào máy tính trở nên rất
thuận tiện, không mất hàng chục năm nghiên cứu như việc mã hóa chữ Hán.
Thực ra từ thế kỷ XVII trở đi, các giáo sĩ châu Âu
cũng hăng hái nghiên cứu dùng chữ cái Latin ghi âm tiếng TQ nhưng tất cả đều thất
bại do gặp những khó khăn không thể vượt qua. Mọi cố gắng theo hướng đó của các
học giả TQ về sau cũng vậy.
Năm 1605, nhà truyền giáo Matteo Ricci đầu tiên đề
ra phương án dùng chữ cái Latin để ghi chú âm cho chữ Hán. Sau đó nhiều người
TQ tiếp tục các nghiên cứu theo hướng đó, bắt đầu từ phương án chữ ghi âm tiếng
Hán do Lô Tráng Chương đề xuất năm 1892. Tới năm 1958, sau khi bỏ ra cực nhiều
công của, nhà nước CHND Trung Hoa mới làm ra được một phương án dùng chữ Latin
để ghi chú âm chữ Hán, gọi là Phương án ghi âm Hán ngữ (Hanyu
Pinyin Fangan). Nhưng đây chỉ là một bộ chữ Latin thể hiện âm đọc của từng chữ
Hán, chỉ có chức năng làm công cụ hỗ trợ học và dùng chữ Hán mà chưa phải là một
hệ thống chữ viết ghi âm hoàn chỉnh có thể thay cho chữ Hán.
Nói cách khác, người TQ chưa làm ra một hệ chữ viết
Latin ghi âm được Hán ngữ. Các cố gắng của họ theo hướng này dường như đã chấm
dứt sau một quyết định năm 1986 thống nhất từ nay không đặt vấn đề ghi âm hóa
chữ Hán.[3] Công cuộc cải cách chữ Hán từ đó dừng
lại ở tình trạng dùng “song ngữ”, tức chữ Hán kèm bộ chữ Pinyin Hán ngữ. Hầu
như toàn bộ người TQ dùng điện thoại thông minh và máy tính đều biết sử dụng
thành thạo bộ chữ Pinyin để đánh máy chữ Hán.
Trong các dân tộc từng dùng chữ Hán, duy nhất Việt
Nam nhờ có chữ Quốc ngữ mà đã hoàn toàn “Thoát Hán” về ngôn ngữ, “thoát” một
cách nhanh gọn, không chút dính dấp tới chữ Hán. Người Triều Tiên cũng sáng tạo
được chữ Hangul là loại chữ ghi âm nhưng vẫn gặp khó khăn về các chữ/từ đồng
âm, họ vẫn cần dùng chữ Hán để ghi chú nghĩa của một số từ, nhất là các từ về
pháp lý.[4] Người Nhật tuy sáng tạo được loại chữ
ghi âm Kana nhưng Nhật ngữ hiện nay vẫn phải dùng khoảng 2000 chữ Hán. Như vậy
nghĩa là hai dân tộc ấy chưa hoàn toàn “Thoát Hán” về ngôn ngữ.
Có thể thấy chữ Quốc ngữ thực sự là một sáng tạo phi
phàm, một thành tựu lao động trí tuệ xuất sắc của các nhà truyền giáo đạo Ki Tô
người châu Âu – những người hiến dâng đời mình cho sứ mệnh truyền bá học thuyết
của Chúa Jesus ấy khi sáng tạo ra chữ Quốc ngữ không biết rằng họ đã làm được một
cống hiến vĩ đại cho dân tộc Việt Nam. Các giáo dân vùng Quảng Nam, Bình Định,
Quy Nhơn, Phú Yên… từng đóng góp phần đáng kể vào sự hình thành và truyền bá chữ
Quốc ngữ. Tiếp đó, công lao hàng đầu trong sự nghiệp bảo vệ và truyền bá phổ cập
chữ Quốc ngữ thuộc về các nhà sáng lập phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, các học
giả Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh…, cùng hàng triệu người tham
gia phong trào Truyền bá Quốc ngữ và Bình dân học vụ.
Học giả Phạm
Quỳnh ca ngợi Chữ Quốc ngữ là công cụ giải phóng trí tuệ của
người Việt Nam. Đúng thế, chữ Quốc ngữ mở ra không gian vô tận cho tư duy của
người Việt, bất kỳ ý nghĩ nào cũng có thể ghi lại bằng chữ – điều này trước đây
chưa bao giờ thực hiện được. Chữ Quốc ngữ dễ học, dễ nhớ, dễ đọc dễ viết; nhờ
thế chỉ trong một thời gian ngắn nước ta đã xóa được nạn mù chữ, nâng cao vượt
bậc trình độ hiểu biết của dân chúng. Kho tàng tiếng Việt giàu có hơn bao giờ hết,
có thể diễn dịch mọi thành tựu mới nhất của nhân loại về khoa học kỹ thuật,
khoa học xã hội-nhân văn… Nhờ thế nền văn minh Việt Nam phát triển nhanh
chóng, toàn diện, hòa nhập xu thế toàn cầu hóa. Với khoảng gần 90 triệu người
dùng, chữ Quốc ngữ trở thành ngôn ngữ viết top 25 thế giới… Các thành tựu của
chữ Quốc ngữ rất to lớn, trên đây chỉ có thể lướt qua vài điểm. Hãy tưởng tượng
nếu ngày nay nước ta vẫn dùng chữ Hán, chữ Nôm thì nền văn minh Việt Nam sẽ lạc
hậu thảm thương như thế nào. Chữ Hán không ghi âm được tiếng Việt, chữ Nôm ghi
âm được tiếng Việt nhưng khó gấp nhiều lần chữ Hán, phải biết chữ Hán mới học
được chữ Nôm. Với hai loại chữ vuông đó sao có thể truyền bá được các giá trị
văn hóa tư tưởng hiện đại, các khái niệm khoa học kỹ thuật… và xây dựng ngành
văn hóa giáo dục, văn học, báo chí, truyền thanh truyền hình, xuất bản… với quy
mô như ngày nay?
Rõ ràng chữ Quốc ngữ là di sản phi vật thể lớn nhất,
giá trị nhất chúng ta nhận được từ tổ tiên mình – những người góp phần không nhỏ
giúp các nhà truyền giáo châu Âu làm ra chữ Quốc ngữ và sau đó đồng tâm nhất
trí chấp nhận dùng thứ chữ này.
*
Nguyễn Hải Hoành là dịch giả và nhà nghiên cứu tự do
hiện sống tại Hà Nội. Một phiên bản của bài viết đã được đăng trên tạp chí
Văn hóa Nghệ An số 353 (24/11/2017).
———————
[4] Tiếng Triều/Hàn nghèo âm
tiết, cho nên vấn đề từ đồng âm khá phức tạp. Ví dụ hai từ gốc Hán chú
ý và chủ nghĩa, tiếng Triều/Hàn đều đọc và viết là “ju-i”,
hoặc các từ kị sĩ , ký sự, kỹ sưđều đọc
và viết là “ki-sa”, vì thế dễ gây nhầm lẫn. Trong trường hợp cần phân biệt
chính xác các từ đồng âm, sách báo tiếng Hàn thường ghi chú bằng chữ Hán trong
ngoặc đơn.
----------------------------------------
LIÊN
QUAN
Tác giả: Nguyễn Hải Hoành
Posted on 07/09/2015 by The Observer
.
Tác giả: Nguyễn Hải Hoành
Posted on 28/07/2017 by The Observer
No comments:
Post a Comment