Sau 50 năm, lại hỏi nhau:
‘Quê hương của ai?’
Trúc Phương/Người Việt
April
28, 2025 : 5:43 PM
https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/sau-50-nam-lai-hoi-nhau-que-huong-cua-ai/
Hậu quả của
cách nhìn ngụy trá bóp méo lịch sử mà chế độ cộng sản tuyên truyền suốt nửa thế
kỷ đã tạo ra một sự thù hận hậu chiến vô cùng phi nhân và đến giờ vẫn khoét sâu
rạn nứt, vẫn tạo ra ranh giới giữa “phe Quốc Gia” và “phe Cộng Sản,” giữa “cờ
vàng” với “cờ đỏ.”
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/04/BL-Nguoi-Viet-LittleSaigon-1536x1022.jpg
Người
Mỹ gốc Việt ở Little Saigon, California “xin nhận nơi này làm quê hương.” (Hình
minh họa: Văn Lan/Người Việt)
50
năm sau khi chiến tranh chấm dứt, phe “chiến thắng” chưa một lần nào mời tất cả
viên chức chính quyền và sĩ quan quân đội VNCH cùng ngồi lại để bắt tay nhau
như một biểu tượng của sự hàn gắn và để cùng xây dựng quê hương.
Sự
bịp bợm của chính sách hòa hợp – hòa giải
Chính
sách “hòa hợp” của Hà Nội là một chính sách nửa vời và không thành thật. Hà Nội
vẫn xem đồng bào mình, ở chiến tuyến bên kia trước đó hàng chục năm, như những
kẻ thù đáng nghi kỵ. Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa vẫn chưa “được phép” chỉnh
trang toàn bộ. 50 năm sau chiến tranh, phe “chiến thắng” vẫn thể hiện họ như thể
là những kẻ “chính danh” được quyền “sở hữu” quốc gia trong khi những người
cùng dòng máu Việt chạy trốn khỏi chính sách đối xử cay nghiệt của họ là “những
kẻ lưu vong.”
Trong
khi đó, cho đến tận giờ, chế độ cộng sản vẫn ra rả cái gọi là “hòa hợp-hòa giải
dân tộc.”
Ngày
10 Tháng Tư, 2025, Thông Tấn Xã Việt Nam viết: “Kể từ ngày đó (30 Tháng Tư,
1975), nửa thế kỷ đã qua cũng ghi dấu ấn của quá trình hòa giải, hòa hợp dân tộc
của những người con Việt cùng đoàn kết chung tay vì sự nghiệp xây dựng đất nước
Việt Nam thống nhất, độc lập, hòa bình, ngày càng phát triển phồn vinh. 50 năm
qua, với những nỗ lực và sự nhất quán trong chủ trương, chính sách về hòa hợp,
hòa giải dân tộc của Đảng và Nhà nước, vấn đề hòa giải, hòa hợp dân tộc đã mang
lại những kết quả tích cực, góp phần củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn
dân cho sự nghiệp phát triển đất nước…”
“Nghị
quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính Trị đã khẳng định: ‘Xóa bỏ mặc cảm, định kiến,
phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở,
tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt
Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý
do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.’”
***
Tất
cả đều là bịp bợm. Chưa ai thống kê cho thấy có bao nhiêu trí thức kiều bào
vang danh nước ngoài nhưng không được mời về hoặc họ không buồn về. Thậm chí có
những người bị cấm về, dù hệ thống tuyên truyền chế độ luôn ra rả về sự “trân
trọng đón chào” trí thức hải ngoại. Một số trí thức đã quyết định không về. Họ
không tin và họ có đủ bằng chứng để không tin nhà cầm quyền. Khi những trí thức
cộng sản như ông Nguyễn Quang A hoặc Nguyễn Huệ Chi… còn là “thành phần phản động”
thì không ai ngây thơ để ngộ nhận sự “thành thật” của nhà cầm quyền đối với trí
thức. Chế độ cai trị vẫn tiếp tục chính sách “triệt người,” “triệt” cả chính
người của họ.
Trong
thực tế, chế độ cộng sản thậm chí thực hiện chủ trương chia rẽ như một chính
sách. Cách miệt thị người hải ngoại là “bọn ba que” của lực lượng dư luận viên
không phải là “cảm xúc” bột phát. Nó là một tổ chức, được đào tạo và huấn luyện
để đánh “ba que” trên “mặt trận đấu tranh tư tưởng.” Các cuộc ra quân của dư luận
viên ở những thời điểm cụ thể cho thấy rằng chính quyền luôn thiết lập chiến
tuyến để phân biệt “địch-ta,” không chỉ đối với người Việt hải ngoại mà cả với
người trong nước.
Điều
đáng nói nữa là suốt nửa thế kỷ qua, chế độ cộng sản chưa một lần nào thừa nhận
những sai lầm của họ gây ra vào thời kỳ chiến tranh lẫn hậu chiến. Suốt giai đoạn
chiến tranh, miền Nam chưa bao giờ thật sự yên ổn. Khắp đất nước, dải khăn sô
không chỉ phủ trắng tang tóc lên Huế mà còn được đội ở gần như mọi tỉnh thành.
Những kẻ thực hiện các vụ khủng bố không phải là “anh hùng.” Họ cần phải được định
danh lại cho đúng: Tội phạm chiến tranh. Cuộc chiến này cũng cần được định danh
lại cho đúng. Nó không phải là cuộc chiến “giải phóng” mà là cuộc chiến huynh đệ
tương tàn với đầy đủ diện mạo đáng kinh tởm nhất. Nó là cuộc chiến xâm lược miền
Nam. Đó là một cuộc tắm máu dân tộc mà bất kỳ kẻ hoạt đầu chính trị nào liên
quan đều phải chịu trách nhiệm.
Dòng
người vẫn ra đi
Tội
ác cộng sản giai đoạn hậu chiến tàn độc không kém thời chiến tranh, khi hàng
triệu người phải rời bỏ quê hương mà đi. Chưa một lần nào, những kẻ xâm lược miền
Nam nhắc đến điều này, nói đến thuyền nhân, với một chút tủi hổ lương tâm. Và
ly hương chưa bao giờ là câu chuyện có hồi kết. Rời bỏ quê hương và gia đình
không bao giờ là một chọn lựa dễ dàng. Thế nhưng người ta vẫn đi, nhất quyết phải
đi…
Thử
search nhanh trên mạng về dịch vụ visa Hoa Kỳ, visa Úc, visa Canada…, sẽ thấy
vô số quảng cáo “cam đoan bảo đảm đậu.” Một công ty dịch vụ visa thậm chí
“treo” slogan: “Đi Mỹ không suy nghĩ!” Làm thế nào không thể không suy nghĩ khi
quyết định phải đi, một quyết định làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời, một quyết định
có thể biến mình từ một người có của ăn của để thành một người tay trắng lạc
lõng nơi xứ người. Tuy nhiên, vô số người vẫn chấp nhận lấy số phận đặt cược
cho ván bài lớn nhất đời người: Bằng mọi giá phải đi, sẵn sàng đón chờ tất cả
may rủi để đi.
Vì
sao mà sau 50 năm người ta vẫn mừng khi “được” rời bỏ quê hương lên đường tha
phương? Vì sao mà nửa thế kỷ trôi qua người ta vẫn phải “vượt biên” tị nạn cộng
sản và “tị nạn” những hậu quả mà cộng sản gây ra? Vì sao mà sau những tuyên bố
khẳng định chế độ đạt được hết thành tựu này đến thành công khác mà “cán bộ” cộng
sản và đảng viên cộng sản vẫn bằng mọi giá đưa con cái họ ra nước ngoài?
Ở
thời mà đất nước chứng kiến giai đoạn “bình yên” có thể nói là lâu dài nhất kể
từ thế kỷ 20 đến nay, những giọt nước mắt ly hương vẫn chưa cạn. Nếu không kể
những người giàu có đi “tỵ nạn” để mong tương lai con cái tốt hơn, và thành phần
quan chức tham nhũng cuốn gói trốn chạy, thì nhóm đối tượng với tỷ lệ đáng kể
tìm mọi cách để đi khỏi quê hương lại chính là những người nghèo hoặc cực
nghèo. Vừa nghèo vừa ít học. Nhiều trường hợp được khảo sát chi tiết cho thấy họ
không còn bất kỳ chọn lựa nào khác là phải đi. Đi với hy vọng đổi đời, qua con
đường buôn lậu người, với cái giá không hề rẻ.
Quê
hương của ai?
Chế
độ cộng sản luôn ra rả: “Bà con kiều bào dù ở bất cứ nơi đâu cũng luôn là một
phần máu thịt không thể tách rời của tổ quốc,” tuy nhiên, có bao nhiêu người Việt
không được về cúi đầu thắp nén nhang cho ông bà trên chính mảnh đất quê hương
mình? Chưa ai thực hiện thống kê này nhưng chắc chắn con số những “Việt kiều
máu thịt” nằm trong “danh sách đen” của Bộ Công An không ít. Nhiều “máu thịt”
đã bị khước từ nhập cảnh ngay từ sân bay và gần như vĩnh viễn không thể trở về
chừng nào chế độ này còn tồn tại. Đó là chưa kể những người bị “trục xuất” bằng
cách này hay cách khác: Những nhân vật đấu tranh dân chủ bị gán ghép tội “phản
động.”
Họ
không thể trở về và không biết chừng nào mới “được phép” trở về. Quê hương, với
nhiều người, trở thành nỗi khắc khoải đến đau lòng. Quê hương, nhiều khi nhớ
quá, đặc biệt những ngày giáp Tết, trở thành nỗi nhớ cồn cào ruột gan, nỗi nhớ
chảy nước mắt, nỗi nhớ ngậm ngùi đau xé, đến mức không chịu nổi buộc phải thốt
lên để cho vơi lòng. Quê hương giờ như thuộc “sở hữu” của chế độ cai trị. Nó trở
thành “cái nhà” của những kẻ muốn đuổi ai thì đuổi, cho vào thì mới được vào.
Quê hương không còn là mái ngói, sân đình, bụi tre, buồng chuối. Quê hương bây
giờ là sự ngạo mạn chiếm hữu của một nhúm người cai trị. Quê hương, mỉa mai đến
tột cùng, là hình ảnh mà người ở xa muốn về mà về không được; và người “ở gần”
thì muốn thoát nhưng đi không xong.
Quê
hương là hình ảnh mà những kẻ tha hương luôn ôm chặt như một thứ “căn cước
tính,” trong khi người đang sống trên đó thì mang tâm trạng của những người “tạm
dung” và “lưu vong.” Nước Việt của thế kỷ 21, sau vô vàn biến động lịch sử, sau
bao nhiêu năm chiến tranh huynh đệ tương tàn đầu rơi máu chảy, và sau 50 năm
“thống nhất,” đã trở thành một nước Việt nặng trịch nỗi buồn chất nặng lên hai
chữ “quê hương.” Có dân tộc nào trên thế giới đang chịu cảnh này, như Việt Nam?
Dân
tộc nào cũng có một quê hương và dân tộc nào cũng hãnh diện với quê hương mình.
Nhưng quê hương này đang thuộc về ai? Có chế độ cai trị nào trên thế giới đang
tước đoạt cả quê hương của những người cùng một dân tộc? Làm thế nào có thể xây
dựng nên một dân tộc vĩ đại khi chế độ cai trị “chiếm hữu” quê hương như một phần
thưởng “chiến thắng” và tự cho mình có quyền định đoạt “ai phải đi” và “ai được
về”?
“Bên
mái hiên ta ngồi chuyện trò/ Khoai nướng thơm hương tình ruộng đồng/ Con thơ
ngoan hiền ê a đánh vần/ Việt Nam là Việt Nam kiêu hùng” – lời ca khúc “Anh vẫn
mơ một ngày về” của ca sĩ Nguyệt Ánh nhắc rằng hai chữ “Việt Nam” nó gần gũi và
thiêng liêng thế nào. Nó gắn liền với “hồn thiêng sông núi” và tâm thức Việt,
chứ không phải với chế độ cai trị. Nó cho thấy chế độ cai trị có làm gì đi nữa
khiến người Việt phải ly tán xa rời quê hương thì hai chữ “Việt Nam” ngạo nghễ
kiêu hùng vẫn khắc sâu trong tâm khảm, đủ để nuôi dưỡng niềm tin cho một ngày
mai tươi sáng hơn… [kn]
No comments:
Post a Comment