Tô
Thùy Yên và Những Bài Thơ Viết Trong Tù
29/05/2022
https://thuymyrfi.blogspot.com/2022/05/pham-tin-ninh-to-thuy-yen-va-nhung-bai.html
(Để tưởng niệm
anh – nhân dịp giỗ lần thứ ba của nhà thơ Tô Thùy Yên)
Một người
dốt đặc về thơ phú như tôi mà lại từng được làm bạn và lạm bàn về thơ cùng với
một nhà thơ nổi danh như Tô Thùy Yên thì đúng là chuyện lạ. Cho dù đó là chuyện
ở trong tù.
Vì vậy, khi biết tin anh qua đời, một số bạn tù khuyên tôi nên viết một
bài để tưởng niệm anh, nhưng tôi không dám. Vì thấy rất nhiều nhà văn nhà thơ
tên tuổi bậc thầy đã viết về anh, hơn nữa tôi ngại người đời thường dị nghị
chuyện “thấy người sang bắt quàng làm họ.” Hôm nay nhân ngày giỗ lần thứ ba của
anh, theo truyền thống Việt Nam, là ngày chính thức mãn tang anh, tôi xin viết
đôi điều để tưởng nhớ anh và nhắc lại vài kỷ niệm cùng anh trong tù.
Khi còn ngoài Bắc, có thời gian tôi đã từng ở chung trại tù với anh Đinh Thành
Tiên (tên khai sanh của Tô Thùy Yên), nhưng khác đội, lúc ấy chưa biết nhiều về
anh và cũng chưa có dịp thân quen anh.
Mãi đến tháng 9 năm 1981, chuyển vào Nam, đến Trại Z- 30 C Hàm Tân, anh
và tôi được “biên chế” ở cùng một đội, và nằm gần nhau trong gần hai năm, cho đến
khi tôi ra tù. Đặc biệt trong đội này có cả anh Đặng Trần Huân, cũng nằm cách
chúng tôi vài ba người. Và tôi được hân hạnh thân thiết với cả hai.
Khi ấy, tôi biết danh anh Đặng Trần Huân nhiều hơn là anh Đinh Thành
Tiên, vì quanh năm hành quân trong núi rừng chưa có cơ hội được đọc nhiều thơ
Tô Thùy Yên, chỉ biết mỗi bài Chiều Trên
Phá Tam Giang được phổ nhạc và loáng thoáng chuyện tình giữa anh và nhà văn
Nguyễn Thị Thụy Vũ. Riêng anh Đặng Trần Huân thì có nhiều chuyện vui trên báo
Chiến Sĩ Cộng Hòa, và “Chuyện Cấm Đàn Bà”mà
tôi thường đọc.
Cả hai anh đều lớn tuổi hơn tôi, và sau khi biết cha tôi bị chết ở một trại
tù khác trong Nam, vợ con nheo nhóc, nên tôi trở thành một trong những con bà
Phước trong tù, hai anh đều thương quý tôi. Nằm bên cạnh anh Tô Thùy Yên, nên
tôi thường được anh đọc cho nghe những đoạn thơ anh ứng khẩu hay sáng tác.
Anh có thói quen làm bài thơ nào cũng dài. Bất cứ lúc nào, ngay cả khi
đang phải lao động, anh thì thầm ứng khẩu một vài câu hay vài đoạn, đến tối nằm
đọc lại, ghi vào tờ giầy nhỏ để sau đó ghép thành một bài dài. Có khi cả năm mới
đủ một bài. Nghe anh thì thầm những câu thơ anh viết, thét rồi tôi thuộc lòng
và còn nhớ hơn cả chính anh. Tôi dốt về thơ nhưng lại có tính mê thơ từ nhỏ. Vì
vậy có nhiều khi anh quên, tôi có nhiệm vụ phải nhắc bài thơ đã đến đâu rồi, để
anh tiếp tục. Anh làm thơ trong trí, lẩm bẩm một minh, đọc cho tôi nghe, rồi
chép vội vào một mảnh giấy nhỏ, nhét ở đâu đó. Thỉnh thoảng anh nhờ tôi giữ hộ
một số.
Có lần anh bỏ vào cuốn tự điển Anh-Việt được gia đình thăm nuôi, ngụy
trang bằng cái bìa của cuốn truyện “Thép
Đã Tôi Thế Đấy”nên qua mắt được gã công an kiềm soát. Anh học Anh văn bằng
cách say sưa đọc cuốn sách gối đầu giường của người cộng sản, tác phẩm nổi tiếng
của văn hào Nga Nikolai A. Ostrovsky, nhưng kỳ thực, chỉ có cài bìa, còn cả phần
ruột là cuốn tự đỉển Anh – Việt của tác giả Nguyễn Văn Khôn.
Có một lần không may, bất ngờ cả trại bị khám xét “đột xuất”. Các tù nhân
có lệnh mang theo tất cả đồ đạc tư trang ra ngoài sân để chuyển trại. Một tên
công an lục lọi đủ mọi thứ, khám phá cuốn sách mang tên “Thép đã tôi thế đấy” lại là cuốn sách toàn chữ của “đế quốc Mỹ”,
và trong đó còn có cả mấy mẩu giấy có vài câu thơ “phản động” nên anh bị cùm
hơn hai tuần. Cuốn sách và mấy bài thơ, tất nhiên bị tịch thu.
Hôm mới được thả về đội, anh yếu và mệt quá, thêm một chút “phản kháng” nữa,
nên anh dặn tôi, khuya này, khi nào nghe anh rên thì tôi hô to ‘cấp cứu, có tù bệnh đột xuất”. Lúc ấy
người phụ trách trạm xá là Bác sĩ Anh, nguyên là Y sĩ Thiếu Tá bị bắt trong vụ
nhà thờ Vinh Sơn sau 1975, kêu án 30 năm tù. Nghe nói là ông có một ông anh lại
là Trung Tá Bác sĩ Công An CS, nên bảo lãnh để được ra làm ở trạm xá thay vì phải
lao động. Dường như Bác sĩ Anh là bạn khá thân với anh Đinh Thành Tiên trước
kia, nên hai người có hẹn nhau, nếu khi nào anh Tiên gọi cấp cứu thì bác sĩ Anh
đến khám và cho lên bệnh xá nằm vài hôm, khỏi phải đi lao động.
Anh được ban cho cái bệnh loét bao tử. Đây cũng là dịp để anh thoải mái
làm thơ. Chỉ có tôi là người duy nhất biết được giao kèo bí mật này, nên khi
anh Tiên kéo tay tôi và bắt đầu rên là tôi hô to “Cấp cứu! Cấp Cứu! Có tù bị bệnh đột xuất”. Và lần nào, đám công an
cũng đưa Bs Anh đến khám và cho khiêng anh vê trạm xá! Bác sĩ Anh là một bác sĩ
giỏi, một con người khẳng khái, tư cách và rất hết lòng với anh em.
Trong những bài thơ anh viết, bài mà tôi thuộc lòng và thích nhất đó là
bài “Tháng Chạp Buồn”. Anh viết mấy đoạn
đầu của bài thơ này vào giữa tháng Chạp năm 1981, mãi đến tháng Chạp năm 1982
anh mới viết xong mấy đoạn cuối (tức là khi đã ở tù hơn tám năm, nhưng sau này
có bài được viết là chín năm). Anh đọc và giải thích từng câu, từng đoạn trong
bài thơ cho tôi nghe. Rất nhiều câu tôi rất tâm đắc, như : “Tám năm áo rách bao nhiêu lượt, con vá chồng
lên những nỗi niềm”, nhưng cũng có đôi câu tôi dốt nên không hiểu, như “Cha
mẹ già như trúc trổ bông”, nhờ anh giải thích tôi mới biết khi trúc trổ
bông là trúc sắp chết.
Tôi nể phục tài làm thơ của anh và rất cảm động khi đọc bài thơ anh viết,
bởi câu nào cũng mang đầy tâm trạng của anh mà cũng của chính tôi và những người
bạn tù khác nữa. Anh bảo viết bài thơ này tặng tôi. Và anh tặng thật. Anh viết
vào một mảnh giấy được xếp thật nhỏ với chữ cũng thật nhỏ đầy kín cả hai mặt.
Chữ anh viết khá đẹp. Mảnh giấy xếp nhỏ có thể kẹp giữa hai ngón tay.
Khi nghe báo tin tôi được ra tù, anh mừng cho tôi, nhưng tôi cũng nhận ra
nét thoáng buồn trong mắt anh, vì từ nay sẽ mất thằng bạn tù anh xem như thằng
em thân thiết, từng lắng nghe và thuộc những bài thơ mang cả nỗi lòng anh. Biết
tôi đã thuộc nằm lòng, anh vẫn bảo cố giấu mảnh giấy có chép bài thơ mang về
làm kỷ niệm, vì khá dài nên cũng chóng quên. Nhưng khi lên ban chỉ huy trại xếp
hàng chờ lãnh tấm giấy ra trại, thấy mấy anh bạn tù phía trước bị khám xét quá
kỹ quá, tôi nhát gan, vội bỏ mảnh giấy vào miệng nhai nát rồi nuốt vao cái dạ
dày đang đói. Khi về đến nhà, tôi liền ngồi viết lại cả bài thơ và đưa cho vợ
tôi đọc. Nàng rơm rớm nước mắt.
Khi biết tin anh đến Mỹ, tôi đang ở Na Uy, nên nhờ cô con gái lớn đang
sang học ở Cali liên lạc tìm thăm anh. Anh vui lắm. Từ đó anh em thường liên lạc
thăm nhau. Tôi chép lại bài thơ “Tháng Chạp Buồn” gởi cho anh, vì anh cho biết
đã không còn nhớ rõ một vài câu trong đó.
THÁNG
CHẠP BUỒN
Tết này con
vẫn chưa về được
Chân mỏi còn
lê nặng kiếp tù
Con nghĩ mà
đau muôn nỗi nhớ
Tám năm lòng
bạc những thiên thu
Tám năm những tưởng là vô tận
Rồi cũng qua như tiếng rụng rời …
Thương nhớ nghe chừng sông biển cạn
Nghe chừng gãy những cánh chim bay
Con đi đã mấy
miền Nam Bắc
Ðâu cũng thì
đau đớn giống nòi
Con khóc hồn
tan thành nước mắt
Lâu rồi trời
đất hết ban mai
Tuổi con đã quá thời nghi hoặc
Sao vẫn như người đi giữa đêm
Tám năm áo rách bao nhiêu lượt
Con vá chồng lên những nỗi niềm
Con nhớ cội
mai già trước ngõ
Xuân này có
gắng gượng ra hoa
Xót xa thế,
thiết tha là thế
Ðời mất đi từng
mảng thịt da
Căn nhà đã có thời gian ngụ
Bụi mọt rơi và ngọn gió qua
Thăm thẳm nghìn đêm chong mắt đợi
Ai trầm luân đó đã về chưa ?
Con nhớ khu
vườn sau vắng lạnh
Mỗi cây làm
chứng một thâm tình
Quây quần
bên mẹ cha buồn bã
Như một phần
con đứng lặng thinh
Tám năm con thức ngàn đêm trắng
Mơ sáng ngày mai đời đổi thay
Con nắm tay mình trong bóng tối
Hiểu rằng sống được cũng là may
Tám năm con
giấu trong tâm tưởng
Thanh kiếm
giang hồ thuở thiếu niên
Mà đợi ngày
mai trời trở giấc
Ðem thân làm
trận lốc kinh thiên
Tết này con vẫn chưa về được
Sông núi còn ngăn những tấm lòng
Nên đành lấy nhớ thương mừng tuổi
Cha mẹ già như trúc trổ bông
* * *
Tết này anh
vẫn chưa về được
Chắc hẳn em
buồn như cỏ thu
Ngọn gió mùa
xưa hiu hắt thổi
Dòng đời
nghe lạnh nỗi thờ ơ
Tám năm hiu quạnh vang mòn mỏi
Những tiếng vang từ mỗi nhịp tim
Những tiếng vang sâu từ cõi chết
Qua ngàn lớp cửa nặng nề im
Con sông nước
chảy đôi miền nhớ
Biền biệt
trôi, ngày một một xa
Còn gọi nhau
qua từng giấc mộng
Bàng hoàng
như một cánh chim sa
Trong ấy mùa xuân có đến không ?
Mùa xuân hoa nở má em hồng
Mùa xuân áo mới như hy vọng
Nắng mật ngời lên ánh mắt trong
Ở đây có lẽ
xuân không đến
Rừng núi
chưa tan giấc não nề
Thương nhớ
tràn như con lũ máu
Lòng anh đã
vỡ những con đê
Lòng anh đau nỗi quê hương mất
Ðời bỏ đi chưa hả nhục nhằn
Có chết cũng thành ma vất vưởng
Ðêm về thương khóc nhớ quê hương
Anh nhớ con
đường em vẫn đi
Cỏ hoa bối rối
gọi nhau về
Thời gian có
ngủ mê từ đó
Nhan sắc bây
giờ có ủ ê ?
Anh nhớ bao điều tưởng đã quên
Tình xưa như nước chảy trăm miền
Tình xưa như hạt cây khô rụng
Từ những mùa xa lá phủ lên
Anh nhớ làm
sao mà chẳng nhớ
Căn nhà ấm
tiếng nói thân thương
Căn nhà như
giấc chiêm bao biếc
Có ánh trăng
và hương dạ lan
Làm sao em chẳng buồn cho được
Tám độ mai rơi hết mộng vàng
Mái tóc ủ thời con gái cũ
Bây giờ e cũng đã phai hương
Tết này anh
vẫn chưa về được
Lau sậy già
thêm một tuổi xuân
Còn nhớ
thương ai miền gió cát
Bao giờ mới
dứt được trầm luân !
* * *
Tết này cha vẫn chưa về được
Chắc hẳn con buồn cạn tuổi thơ
Từ buổi cha đi, nhà tróc nóc
Tuổi thơ thôi cũng nhuốm bơ phờ
Từ buổi cha
đi đời lặng lẽ
Mắt nai héo
đỏ nỗi mong chờ
Mỗi lần có
khách đi vào ngõ
Con bỏ vui
đùa đứng ngẩn ngơ
Con sáo trong lòng con đã chết
Bé ơi sao bé mãi đi tìm
Con kêu lạc giọng ơi… ơi… sáo
Rồi khóc trong chiều muộn nhá nhem
Tám năm mưa
gió qua rền rĩ
Chim nhỏ
không còn vui líu lo
Ngơ ngác tuổi
thơ người lớn sớm
Nhìn đâu
cũng chỉ thấy bơ vơ
Ðã tám năm rồi con bỏ học
Cuộc đời như một bát cơm thiu
Mỗi lần có phải qua trường cũ
Con bước nhanh vì sợ bạn kêu
Lần hồi rau
cháo mẹ nuôi con
Con lớn lên
theo vạn nỗi buồn
Mơ ước ngày
sau làm tráng sĩ
Ðem thân vào
những chốn đau thương
Ngày sau con dựng ngôi nhà lớn
Trồng lại tình thương dọc nẻo đời
Tạc lại con người khôi việt đẹp
Làm nên thế giới mới tinh khôi
Cha thương
con biết bao mà kể
Ôi mắt nhung
reo ánh nỗi niềm
Mái tóc tơ hồng
hương nắng hạ
Tuổi thơ mùi
sách mới lâng lâng
Xa con cha thấy buồn vô hạn
Như mất thêm lần nữa tuổi thơ
Cha tiếc không cùng con sống lại
Ngày vui cha vẫn giấu trong mơ
Ôi cánh diều
băng mùa hạ cũ
Xương tàn
còn đọng ngọn tre cao
Ðến nay trời
nổi bao lần gió
Con tưởng
oan hồn vật vã đau
Tết này cha vẫn chưa về được
Ðành hẹn cùng con tết khác thôi
Con nhớ để dành cây pháo cũ
Ðể dành một chút tuổi thơ vui.
Tô Thùy
Yên
Sau này, bài thơ TA VỀ, anh viết khi ra tù, đã trở thành một tuyệt tác,
đưa tên tuổi anh lên tột đỉnh thi ca. Bài thơ mà gần như người Việt khắp thế giới
đều biết đến, ngay một vài tờ báo văn nghệ trong nước cũng đã đăng tải, bình phẩm
và ngợi ca. Bài thơ rất dài, nhưng nhiều người thuộc nằm lòng, chỉ cần nhắc đến
một vài chữ, như “cám ơn hoa đã vì ta nở”…là
biết ngay đến Tô Thùy Yên. Nhưng với tôi, bài thơ “Tháng Chạp Buồn” lại gây cho tôi nhiều xúc động hơn, không chỉ nó
mang nhiều tâm trạng của “tám năm áo rách
bao nhiêu lượt, tôi vá chồng lên những nỗi niềm” mà còn gợi lại nhiều kỷ niệm
gắn bó giữa anh Tô Thùy Yên và cá nhân tôi trong những năm tù ngục.
Trong tù, anh có kể cho tôi nghe cuộc tình của anh với nhà văn Nguyễn Thị
Thụy Vũ. Anh cũng tỏ ra ân hận và thấy có lỗi với cả hai người đàn bà, chị Nguyễn
Thị Thụy Vũ và chị Huỳnh Diệu Bích, người vợ chính thức mà anh hết lời ca ngợi.
Cuộc tình này đã gây cho anh khá nhiều tai tiếng và cũng để lại nhiều dằn vặt
trong anh.
Anh Đặng Trần Huân lớn hơn anh Đinh Thành Tiên mười tuổi, khi ấy tóc đã bạc
trắng, cùng phục vụ trong Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị nhưng người Bắc người
Nam, khác tính nhau và dường như không mấy thân nhau. Tô Thùy Yên thì trầm
ngâm, ít nói, còn Đặng Trần Huân thì thường vui đùa, bỡn cợt. Khi tâm tình với
tôi, anh Đặng Trần Huân cũng thường có ý trách anh Tô Thùy Yên về chuyện Nguyễn
Thị Thụy Vũ. Tôi vừa đùa vừa bênh vực: tình của giới văn nghệ mà, nên thông cảm,
bố ạ! Tôi thường gọi anh Đặng Trần Huân là bố và anh cũng xưng bố với tôi. Vì có
lần anh đùa, bảo “ bố có cô con gái út
chưa chồng, nếu mai này mày ra tù mà vợ đã lấy chồng khác tao sẽ gả nó cho
mày!” (xin lỗi cô gái út, nếu đọc được mấy dòng này).
Cả hai anh đều sang Mỹ cùng gia đình theo diện HO. Anh Đặng Trần Huân mất
vào năm 2003 tại Nam Cali, sau khi sinh hoạt báo chí, văn nghệ một thời gian.
Anh Tô Thùy Yên thì nổi tiếng với bài thơ Ta
Về, nhưng không còn sáng tác nhiều. Chỉ ra mắt duy nhất tập thơ “Thắp Tạ”.
Đọc tập thơ anh gởi tặng, tôi nghĩ có lẽ đây là một kết thúc, khi ở đầu tập
thơ anh viết:
Thắp tạ càn
khôn một vô ích
Thắp tạ nhân
quần một luyến thương
Và
Thức cho
xong bài thơ
Mai sớm ra
đi
Cài hờ lên cửa
tặng
Tôi gọi sang cám ơn anh và đùa:
– Đọc tập thơ này có nhiều câu em không hiểu được. Vả lại, ông anh còn
yêu đời quá mà “thắp tạ” làm chi sớm vây?
Tập thơ xuất bản năm 2004, mãi đến mười lăm năm sau, ngày 21 tháng 5 năm
2019, nhà thơ Tô Thùy Yên mới ra đi. Và đúng là anh cũng đã yêu đời thật, khi
trải qua một cuộc tình đẹp đầy tính văn nghệ với một cô con gái trẻ, mê thơ và
ngưỡng mộ anh!
Rồi mọi người sẽ nhớ tới anh, nhớ mãi thơ anh. Bài thơ Ta Về sẽ trở thành
bất tử. Riêng tôi sẽ không thể nào quên người anh, bạn tù, một nhà thơ lớn, có
tâm hồn, lãng mạn, nhưng luôn khí khái, đã cho tôi nhiều kỷ niệm dễ thương, thi
vị ngay trong cảnh khốn cùng nhất của kiếp con người.
Bắc Âu,
21.05.2022
PHẠM
TÍN AN NINH
Publié par Thụy My RFI à 23:15
No comments:
Post a Comment