Nguyễn Văn Tuấn
October
21, 2017
Đây
là một công trình mang tính anthology hay “hợp tuyển tác giả” vừa công phu vừa
mang tính sử của nhà văn Ngô Thế Vinh. Mười sáu văn nghệ sĩ và hai nhà văn hóa
được giới thiệu trong sách là những nhân vật lừng danh trong nền văn học và văn
hóa miền Nam trước 1975 và ở hải ngoại sau năm 1975. Qua công trình này, bạn đọc
sẽ “gặp” những tác giả nổi tiếng, những người đã có những đóng góp mang tính định
hình cho nền văn học miền Nam trước 1975. Công trình này, tự nó, là một đóng
góp quan trọng và có ý nghĩa vào công việc lâu dài nhằm gìn giữ những tinh hoa
của văn học nghệ thuật miền Nam cho các thế hệ mai sau.
Tác
giả Ngô Thế Vinh. (Hình: Quảng Pháp/sentrangus.org)
Đây
là một công trình mang tính anthology hay “hợp tuyển tác giả” vừa công phu vừa
mang tính sử của nhà văn Ngô Thế Vinh. Mười sáu văn nghệ sĩ và hai nhà văn hóa
được giới thiệu trong sách là những nhân vật lừng danh trong nền văn học và văn
hóa miền Nam trước 1975 và ở hải ngoại sau năm 1975. Qua công trình này, bạn đọc
sẽ “gặp” những tác giả nổi tiếng, những người đã có những đóng góp mang tính định
hình cho nền văn học miền Nam trước 1975. Công trình này, tự nó, là một đóng
góp quan trọng và có ý nghĩa vào công việc lâu dài nhằm gìn giữ những tinh hoa
của văn học nghệ thuật miền Nam cho các thế hệ mai sau.
Mặc
dù nhà văn Ngô Thế Vinh sắp xếp tác giả theo năm sinh, nhưng tôi nghĩ cuộc đời,
những tác phẩm, và hành trình sáng tác của các tác giả trong hợp tuyển này phác
họa một trình tự khác. Đó là trình tự theo dòng lịch sử gồm 4 giai đoạn: bối cảnh
văn học miền Nam trước 1975, tù đày, vượt biển, và sống sót.
Về
bối cảnh văn nghệ trước 1975, tôi chắc rằng cuốn sách của tác giả sẽ làm cho bạn
đọc cảm thấy tiếc nuối cho một thời văn học được hình thành trong một chế độ
chính trị chỉ tồn tại vỏn vẹn 20 năm. Đó là một môi trường văn học tự do, phóng
khoáng và giàu tính nhân văn. Rất nhiều tác phẩm có giá trị cùng những quan điểm
nhân sinh được giới thiệu, trình bày và quảng bá ngay trong những năm chiến
tranh. Nhiều phong trào văn học nở rộ, như nhóm Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh,
nhóm Quan Điểm của Mặc Đỗ, nhóm Sáng Tạo của Mai Thảo, nhóm Tiểu Thuyết Mới… Những
phong trào văn học không chỉ cho ra đời những sáng tác để đời nhưng còn có những
tác phẩm dịch thuật mà ngày nay chúng ta vẫn còn đọc. Nhà văn Võ Phiến nhận xét
rằng “Trước và sau thời 1954 – 1975, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước
ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy.” Nhiều người,
kể cả người viết bài này, sống trong môi trường như thế không thấy trân quý nó
cho đến khi đánh mất nó sau một cơn biến động lịch sử.
Có
lẽ môi trường tự do học thuật và phóng khoáng đó đã phát hiện và phát huy những
văn tài sáng giá. Chính phủ Trần Trọng Kim tồn tại chưa tròn nửa năm, nhưng đã
để lại một di sản giáo dục mà chúng ta còn sử dụng mãi đến ngày hôm nay. Việt
Nam Cộng Hòa (VNCH) tồn tại được 20 năm, nhưng các thiết chế văn hóa thời đó đã
tạo dựng được một cộng đồng văn học nghệ thuật với một gia tài đồ sộ mà ngày
nay những bậc thức giả nhìn lại cảm thấy luyến tiếc. Chỉ hai mươi năm sau 1954,
miền Nam đã có được một cộng đồng tác giả thuộc nhiều lĩnh vực như văn, thơ, kịch,
ký, họa. Tuy nhiên, sau cơn tai biến lịch sử năm 1975, họ trở thành những nạn
nhân của một cuộc đổi đời. Họ biến mất khỏi văn đàn Việt Nam. Nhưng cùng thời
gian đó một cộng đồng văn học được hình thành ở hải ngoại với những văn nghệ sĩ
mới.
Qua
cuốn sách, bạn đọc sẽ “gặp” những văn nghệ sĩ lừng danh như Võ Phiến, Mai Thảo,
Dương Nghiễm Mậu, Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Mặc Đỗ, Linh Bảo…
Bạn đọc sẽ biết đến những đóng góp của những người trẻ tuổi hơn sau 1975 ở hải
ngoại như Cao Xuân Huy và Phùng Nguyễn. Nhưng qua những văn nghệ sĩ này, bạn đọc
còn “gặp” những Phạm Duy, Vũ Hoàng Chương, Trần Ngọc Ninh, Cung Trầm Tưởng, Tô
Thùy Yên, Nguyên Sa, Cung Tiến, Trần Phong Giao, Lê Ngộ Châu, Nguiễn Ngu Í,
Nguyễn Mộng Giác, Tạ Chí Đại Trường, v.v… Có thể nói đó là những tinh hoa trong
các thiết chế văn hóa – xã hội – giáo dục miền Nam.
Hai
nhà giáo và cũng là nhà văn hóa được nhắc đến trong sách là Giáo sư Phạm Biểu
Tâm và Giáo sư Phạm Hoàng Hộ. Có lẽ đối với đa số sinh viên ngày nay, lịch sử
trường Y Sài Gòn bắt đầu từ năm 1975, nhưng qua chương viết về Giáo Sư Phạm Biểu
Tâm, một danh y của Việt Nam, các bạn ấy sẽ biết rằng trường Y Sài Gòn có một bề
dày lịch sử từ trước 1955 tức hơn nửa thế kỷ trước. Nhờ vào chương trình đào tạo
tiên tiến, ngôi trường đó đã đào tạo rất nhiều bác sĩ tài ba, khi ra hải ngoại
họ dễ dàng trở thành bác sĩ trong dòng chính ở Bắc Mỹ, Úc Châu, Pháp và có người
đã trở thành giáo sư y khoa danh tiếng ở Mỹ. Qua chương viết về Giáo Sư Phạm
Hoàng Hộ, bạn đọc cũng sẽ biết thêm về bối cảnh và hành trình gian nan để thành
lập Đại Học Cần Thơ, nơi áp dụng hệ thống tín chỉ đầu tiên ở Việt Nam. Ngày
nay, các giới chức giáo dục Việt Nam hay bàn đến vấn đề làm thế nào để nền giáo
dục Việt Nam hội nhập quốc tế, nhưng họ có lẽ quên rằng nửa thế kỷ trước, hệ thống
giáo dục miền Nam đã hòa nhập vào cộng đồng giáo dục thế giới.
Nhưng
biến cố lịch sử 1975 đã làm thay đổi tất cả. Các văn nghệ sĩ là nạn nhân trực
tiếp và đầu tiên của biến cố đó. Trong khi các văn nghệ sĩ bị đi tù “cải tạo,”
thì các tác phẩm của họ bị săn lùng, thu hồi, hủy diệt, kể cả đốt sách. Trong
quyển hợp tuyển này, bạn đọc sẽ đọc được những trải nghiệm đau khổ của thi sĩ
Thanh Tâm Tuyền trong trại cải tạo và suy tư của ông:
“Họ
đưa chúng tôi ra Bắc, tới những cánh rừng già cô lập với thế giới bên ngoài, bỏ
mặc tôi với thiên nhiên, tự do với “mục tiêu đi đốn gỗ mỗi ngày,” tôi đã tập
leo và trượt núi chờ cơ hội đào thoát. Nhưng rồi mỗi ngày tôi chỉ tìm thấy con
đường trở về trại.
[…]
Làm
thơ trong trại tù cải tạo, cũng là trở về với thi ca truyền thống dân gian. Chế
độ làm việc trong trại là một ngày căng thẳng tám tiếng, không có cuối tuần; mỗi
tù nhân có một vũ trụ riêng: một manh chiếu, năm sáu chục tù nhân trên dưới hai
tầng giường, khoảng hơn trăm người trong một lán dưới một mái che. Viết là một
xa xỉ: một chỗ ngồi, thời gian viết. Với nhịp độ áp đặt trên đám tù nhân trong
rét lạnh, đói… ai còn dám nghĩ tới sáng tạo? Ngay cả một thiên tài, một năng lực
siêu nhiên cũng không thể vượt qua được những ‘ức chế’ như vậy.”
Những
trải nghiệm như thế không phải là đặc thù, mà là một nét chung của tù cải tạo
đã được các văn nghệ sĩ khác thuật lại. Một trong những nhà văn cũng từng ở tù
cải tạo là nhà văn Cao Xuân Huy, tác giả của cuốn hồi ký nổi tiếng “Tháng Ba
Gãy Súng.” Nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng nhận xét rằng qua Tháng Ba Gãy Súng Cao
Xuân Huy đã “vẽ lại cơn hồng thủy của một cuộc chiến không thương tiếc, phủ chụp
lên số phận của cả một dân tộc.”
Trong
cơn hồng thủy đó, có nhiều người đã bỏ mạng trong tù đày, đã vùi xác trong các
trại cải tạo ở rừng sâu nước độc. Một trong những người đó là Giáo Sư Nguyễn
Duy Xuân, viện trưởng thứ hai của Đại Học Cần Thơ. Trong chương viết về Giáo Sư
Phạm Hoàng Hộ (một nhà thực vật học nổi tiếng và tác giả của bộ sách để đời
“Cây Cỏ Miền Nam”), chúng ta được biết Giáo Sư Nguyễn Duy Xuân đã bị giam cầm
trong trại cải tạo Hà Nam Ninh suốt 11 năm, và ông đã chết trong trại sau những
ngày tháng đói khát, bệnh tật, và khổ sai.
Và,
cũng có người may mắn sống sót. Hai trong số những người may mắn đó là thi sĩ
Thanh Tâm Tuyền và nhà báo kỳ cựu Như Phong Lê Văn Tiến sau này định cư ở Mỹ.
Khi ra tù, tuyệt đại đa số văn nghệ sĩ không thể nào sáng tác dưới chế độ mới,
và cũng như hàng triệu người dân miền Nam, họ đi tìm tự do, một số cũng trở
thành “Thuyền Nhân.”
Hiện
tượng “Thuyền Nhân” sau 1975 là một thực tế lịch sử, nhưng chưa bao giờ được
“chính sử” Việt Nam ở trong nước ghi nhận đúng đắn. Trong hợp tuyển này, bạn đọc
sẽ chia sẻ cùng các tác giả “Thuyền Nhân” trong hành trình vượt biển. Nhà văn
Mai Thảo, phải trải qua hai lần vượt biên mới thoát khỏi Việt Nam. Thời gian
ông tìm đường vượt biển cũng là lúc thân phụ ông qua đời, và ông chỉ có thể đến
thăm mộ vào lúc ban đêm. Mai Thảo kể:
“Trên
biển cả, tôi có cảm giác được phóng thả. Tôi đã là một con người tự do. Đó là một
đêm tối đen không trăng. Chúng tôi ra được biển khơi nhưng lại có một cơn bão thổi
tới từ Phi Luật Tân, vật vã con tàu nhỏ, bắt buộc chúng tôi phải quay lại bờ.
Vài ngày sau tôi được tin cha tôi chết ở tuổi 82. […] May mắn là tôi đã bí mật
tới thăm mộ cha tôi, đọc lời nguyện tỏ lòng tưởng nhớ và điều ấy đã làm dịu nỗi
đau.
Hình bìa tuyển tập
“Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa” của Ngô Thế Vinh. (Hình: Nguyễn
Văn Tuấn cung cấp)
[…]
Trên
tàu gồm những người tỵ nạn chính trị, sinh viên học sinh, người già, các gia
đình với trẻ thơ. Chúng tôi trải qua 6 ngày đêm. Mọi người đều đói và khát, một
số ngã bệnh. Khi chúng tôi tới gần Mã Lai, biển lặng, trời trong, và mọi người
bắt đầu cất tiếng hát. Họ yêu cầu tôi ngâm một bài thơ. Tôi đọc bài thơ của một
người bạn nói về một người đàn ông rời nhà ra đi mà không có một ai tới nói lời
giã từ.”
Một
nhà văn lớn khác của miền Nam là Nhật Tiến cũng từng trải qua những ngày tháng
kinh hoàng trên đảo Koh Kra, nơi có hàng trăm người Việt tị nạn đã bị bạo hành
và chết dưới tay những tên hải tặc Thái Lan. Sau khi đến trại tị nạn Songkhla,
nhà văn Nhật Tiến cùng hai nhà báo Dương Phục và Vũ Thanh Thủy soạn một bản cáo
trạng về thảm cảnh trên Biển Đông, và bản cáo trạng đã làm cho cả thế giới bàng
hoàng về thảm nạn của người tị nạn Việt Nam. Đóng góp của Nhật Tiến đã làm tiền
đề cho sự hình thành Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển ở San Diego,
California.
Đối
với giới quan sát thế giới, người Việt Nam là một “dân tộc sống sót” (survival
people), với hàm ý rằng người Việt có thể vươn lên từ nghịch cảnh. Một trong những
người sống sót tiêu biểu đó là nhà văn Phùng Nguyễn. Anh là một tác giả đặc biệt
và đáng nể. Phùng Nguyễn đến Mỹ năm 1984, và lúc đó anh đã 34 tuổi. Người gốc
Quảng Nam này, 18 tuổi đã nhập ngũ và bị thương, chưa từng tốt nghiệp trung học
ở Việt Nam, nhưng chỉ một thời gian ngắn ở Mỹ, anh đã trở thành một sinh viên
xuất sắc, tốt nghiệp cử nhân ngành khoa học máy tính với hạng tối ưu. Sau đó,
anh lại tốt nghiệp Cao học Quản trị Kinh Doanh (MBA) và trở thành giám đốc IT
cho một công ty dầu khí ở California. Nhưng nghề IT chỉ là cái “xác,” chứ từ
tâm tưởng thì Phùng Nguyễn chọn nghiệp văn chương. Anh trở thành nhà văn và trước
khi đột ngột qua đời năm 2015, Phùng Nguyễn đã để lại vài tác phẩm đặc sắc được
các nhà văn khen hết lời. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác nhận xét về tác phẩm “Tháp
Ký Ức” như sau: “Truyện ngắn đầu tay của Phùng Nguyễn vượt lên trên những sáng
tác của những người ra đi tị nạn cộng sản từ Miền Nam thuộc thế hệ trước anh
hay cùng thế hệ của anh, những sáng tác làm nòng cốt cho văn chương hải ngoại.
Phùng Nguyễn ôn chuyện cũ như một kỷ niệm đẹp, nhưng anh không dừng ở đó. Anh
nâng tấm ảnh cũ lên thành một suy niệm về nhân sinh.” Phùng Nguyễn là một trường
hợp tiêu biểu những tác giả trẻ ở hải ngoại. Họ là những chuyên gia khoa học và
công nghệ trong xã hội, nhưng cũng là những nhà văn trên văn đàn Việt.
Không
chỉ sống sót trên quê người, họ còn có công gìn giữ và phát huy nền văn học miền
Nam ở hải ngoại trong điều kiện thiếu thốn. Ít ai biết rằng một nhà văn như Võ
Phiến khi sang Mỹ ông làm công chức văn phòng cho quận hạt Los Angeles, và ông
soạn bộ sách Văn học Miền Nam trong thời gian này tại một căn nhà chật hẹp. Bạn
đọc sẽ kinh ngạc và cảm phục sự dấn thân của nhà văn Mai Thảo, người chủ trương
tạp chí Văn trong nhiều năm liền nơi một căn gác nhỏ phía sau nhà hàng Song
Long ở khu Little Saigon, California.
Đã
chọn nghiệp văn chương thì ở đâu cũng “vương vấn” văn nghiệp. Đó là trường hợp
của nhà văn Linh Bảo, một trong những nhà văn nữ hiếm hoi trong cộng đồng văn học
miền Nam. Bà đã thành danh từ thập niên 1950s, sống và làm việc ở Hồng Kông và
sau này ở Mỹ. Tác phẩm Gió Bấc của bà đã nhận được nhiều lời khen tặng từ các
nhà văn kỳ cựu như Nhất Linh, Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến. Võ Phiến nhận xét rằng
nhà văn gốc Huế này là một cây bút “có tài quan sát, lại có tài diễn tả một
cách thông minh những điều mình quan sát.”
Nhưng
cuộc đời lưu vong thường buồn. Đọc những dòng tâm sự của Mai Thảo về cuộc sống ở
Mỹ dù được tự do nhưng mất phần hồn, và những hy vọng mà ông không bao giờ thực
hiện được làm cho chúng ta ngậm ngùi: “Có lẽ một ngày nào đó Việt Nam sẽ tự do
và tôi có thể trở về. Tôi đang hạnh phúc ở đây nhưng nội tâm thì rất buồn bã.
Buồn cho dân tộc tôi. Tôi không biết liệu chúng tôi có còn một tương lai. Xa rời
quê hương, thật khó mà duy trì truyền thống của chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy
như bị đánh mất phần hồn.”
Trong
hợp tuyển này, bạn đọc sẽ tìm thấy những ưu tư, những trăn trở của các nhân vật
được phác họa qua một văn phong nghiêm chỉnh và cẩn trọng. Bạn đọc sẽ ngạc
nhiên biết được những thói quen rất độc đáo của các nhà văn như Mai Thảo và Mặc
Đỗ. Nhà văn Mai Thảo cho đến những năm trong thế kỷ 21 vẫn không dùng máy điện
toán; ông vẫn cần mẫn viết tay tất cả thư từ và bài vở đến các tác giả. Ngay cả
địa chỉ trên bao thư tạp chí Văn gửi cho bạn đọc ông cũng viết bằng tay! Một
nhân vật độc đáo khác là nhà văn Mặc Đỗ, ông chỉ dùng máy đánh chữ cổ điển để
viết văn, chứ không dùng máy vi tính!
Để
biên soạn cuốn hợp tuyển tác giả này, nhà văn Ngô Thế Vinh đã bỏ ra nhiều năm
và công sức. Tác giả là một người rất thận trọng với dữ liệu và chữ nghĩa. Người
viết bài này có cơ duyên quen biết với tác giả hơn 15 năm qua, và đã ra công
làm cầu nối cho những bài viết của tác giả trên không gian mạng. Có những bài
viết anh liên tục chỉnh sửa chăm chút đến từng chi tiết, thái độ và cách làm đó
thể hiện một sự tôn trọng độc giả rất cao.
Bạn
đọc không chỉ gặp những nhân vật tài hoa với từng nhân cách đặc biệt, mà còn có
dịp điểm qua những chứng từ quý hiếm mà tác giả đã dày công sưu tập. Mỗi chương
sách, tính trung bình, có khoảng 12 hình ảnh, và 18 chương sách có hơn 200 hình
ảnh và hiện vật. Bạn đọc sẽ chiêm ngưỡng những thủ bút, hiện vật, những bìa
sách cách đây gần nửa thế kỷ. Mỗi nhân vật được tác giả phác họa bằng một tiểu
sử, những tác phẩm, thành tựu của họ, và những tâm tình đằng sau những tác phẩm.
Bạn đọc sẽ biết những nhân vật chính trong những sáng tác của Nguyễn Đình Toàn
“không phải là những nhân vật được nhắc tới trong trang sách mà chính là Thành
phố Hà Nội.” Bạn đọc sẽ cảm thấy xúc động khi biết họa sĩ Nghiêu Đề, người mà
tác giả gọi là “người bạn tấm cám,” vẽ bức tranh sơn dầu về con gái út Bé Sài
Gòn khi ông đang nằm trên giường bệnh và qua đời khi tác phẩm còn dang dở.
Quyển
hợp tuyển này là một đóng góp có ý nghĩa cho sự gìn giữ một nền văn học tự do,
phóng khoáng và giàu tính nhân văn. Ngày nay, nếu hỏi ngẫu nhiên một sinh viên
đại học hay thậm chí hỏi một giáo sư đại học, về những tác giả nổi danh trong nền
văn học miền Nam trước 1975, xác suất rất cao là họ không biết hay chưa nghe đến.
Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì nền văn học đó chưa được ghi nhận một cách đứng đắn,
và những tác giả thời đó cũng chưa được giới thiệu một cách có hệ thống trong
các đại học và văn đàn sau 1975. Tình trạng này đã được nhà văn Võ Phiến nhận
xét từ những hai thập niên trước: “Nền
văn học 1954-75 ở Miền Nam Việt Nam trong thời gian qua bị ém giấu, xuyên tạc.
Nó gặp một chủ trương hủy hoại, gặp những bỉ báng hồ đồ. Nó chưa được mấy ai lưu
tâm tìm hiểu, phán đoán cách đứng đắn, tử tế.” Cuốn hợp tuyển này sẽ giúp bạn
đọc tìm lại một mảng văn học bị lãng quên, và có tư liệu để đánh giá nền văn học
đó. Nếu các bạn muốn có những dữ liệu mới và đáng tin cậy cho việc khảo cứu nền
văn học miền Nam trước 1975 thì quyển hợp tuyển này là một nguồn tham khảo cần
thiết. (Nguyễn Văn Tuấn)
Tuyển
tập “Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa” của Ngô Thế Vinh
Mẫu bìa Hoàng Ngọc Biên
Nxb Việt Ecology Press
ISBN ấn bản màu: 978-1976114472; đen trắng: 978-1978108042
Phát hành Tháng Mười, 2017
www.amazon.com Việt Ecology Press, các hiệu sách
Liên lạc: vietecologypress@gmail.com
P.O. Box 3893, Seal Beach, CA 90740
Mẫu bìa Hoàng Ngọc Biên
Nxb Việt Ecology Press
ISBN ấn bản màu: 978-1976114472; đen trắng: 978-1978108042
Phát hành Tháng Mười, 2017
www.amazon.com Việt Ecology Press, các hiệu sách
Liên lạc: vietecologypress@gmail.com
P.O. Box 3893, Seal Beach, CA 90740
No comments:
Post a Comment