Thứ
Năm, 19 tháng 10, 2017
Theo
thông tin từ Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về Phòng chống Thiên tai, tính đến
ngày 15/10, đợt mưa lũ tuần qua tại Miền Trung và các tỉnh miền núi phía bắc đã
khiến 68 người chết và 34 người mất tích, chưa kể hàng chục người bị thương
tích nặng khác. Những cái chết đều vô cùng thương tâm, còn thiệt hại về vật chất
thì không sao đếm xuể.
Đâu là nguyên do?
Trước
thảm hoạ kinh hoàng đó, ông Trần Quang Hải, Tổng Cục trưởng Tổng cục Phòng chống
Thiên tai, đã phải chua chát thú nhận: “Phá rừng là một trong những nguyên nhân
chính gây ra lũ quét, sạt lở. Chúng ta đang phải trả giá và sẽ còn tiếp tục do
nhiều đồi, nhiều rừng đã bị ‘cạo trọc’.”
Trong
một bài viết trên báo Tuổi Trẻ ngày 14/10, GS Vũ Trọng Hồng, nguyên Thứ trưởng
Bộ NN&PTNT, nhận định: “Từ câu chuyện mất rừng đầu nguồn, có lý do chính là
chúng ta đã dành diện tích rừng rất lớn cho phát triển thủy điện… Cần xem lại
các quy trình vận hành hồ chứa, đặc biệt là các hồ chứa của thủy điện. Nếu chỉ
thống kê qua số liệu, với số lượng hồ chứa hiện có, các nước sẽ nghĩ chúng ta
yên ổn về phòng lũ, cắt lũ. Hồ chứa không phải là cái ao, phải có nhiệm vụ điều
tiết nước theo đúng mục tiêu mùa lũ trữ nước, mùa khô xả nước. Nhưng với các hồ
chứa thủy điện thì không làm được hết như vậy, vẫn còn chủ động tích nước từ đầu
mùa lũ thay vì phải xả nước đầu mùa. Thậm chí với những thủy điện vừa và nhỏ, hơn
1.000 thủy điện, đa số là không có dung tích phòng lũ.”
Và
tại hội nghị trực tuyến của Chính phủ bàn về việc "tăng cường quản lý, bảo
vệ rừng và các giải pháp thực hiện trong thời gian tới" ngày 14/10 vừa
qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã thừa nhận: “Những công trình thủy điện nhỏ
nhưng phá rừng rất lớn.”
Ai là thủ phạm?
Như
vậy, có thể nói, tác nhân chính của thảm hoạ mưa lũ lịch sử vừa qua là công tác
quản lý, bảo vệ rừng và công tác quy hoạch, quản lý thuỷ điện.
Vậy ai là người chịu trách nhiệm cao nhất
về công tác quản lý, bảo vệ rừng và quy hoạch, quản lý thuỷ điện những năm qua?
Xin thưa, câu trả lời là ngài cựu Phó
Thủ tướng, đương kim Bí thư Thành uỷ Hà Nội Hoàng Trung Hải!
Hoàng Trung Hải
(trái) và Nguyễn Phú Trọng.
Ngoài
trọng trách Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề cử
và được Quốc hội của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng phê chuẩn từ ngày
2/8/2007, Hoàng Trung Hải còn được “đồng chí X” tin tưởng giao phó trọng trách
Trưởng ban Chỉ đạo Nhà nước về Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng.
Nghĩa
là, tất cả các dự án liên quan đến đất rừng, từ việc chuyển đổi đất rừng, giao
đất rừng cho các dự án thuỷ điện, cho đến việc giao hàng trăm ngàn ha rừng đầu
nguồn, biên giới cho các công ty Trung Quốc… từ năm 2007 đến 2016 đều phải nhận
được sự chuẩn thuận của PTT Hoàng Trung Hải, nhân vật quan trọng và quyền uy thứ
hai trong chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.
Ngoài
ra, nếu số liệu báo cáo của các tỉnh thành cũng như của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn về công tác trồng rừng hàng năm là chính xác thì đến nay tỷ lệ
che phủ rừng của Việt Nam đã vượt mức 100%, tức là không một m2 nào trên dải đất
hình chữ S này chưa được rừng che phủ. Tuy nhiên, thực tế thì như những gì mà
chúng ta đã thấy. Và dĩ nhiên, “thành tích” này trước hết phải được “ghi nhận”
cho ngài (cựu) Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế ngành (trong đó có ngành Lâm
nghiệp) kiêm Trưởng ban Chỉ đạo Nhà nước về Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng
Hoàng Trung Hải.
Đặc
biệt, từ năm 1998, Hoàng Trung Hải đã là Tổng Giám đốc EVN. Ông ta càng có điều
kiện khuynh loát ngành điện lực Việt Nam sau khi ngồi lên chiếc ghế Bộ trưởng
Công nghiệp (2003-2007) và Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế (2007-2016).
Ngày
24/10/2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định số 1436/QĐ-TTg về việc
thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước về Quy hoạch Điện VI, đồng thời bổ nhiệm PTT
Hoàng Trung Hải làm Trưởng ban. Ngày 26/12/2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lại
ký quyết định số 2449/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước về Quy hoạch
Phát triển Điện lực Quốc gia, dĩ nhiên PTT Hoàng Trung Hải lại là Trưởng ban.
Trả
lời báo chí bên hành lang Quốc hội ngày 9/11/2009, ngài PTT đã hùng hồn khẳng định:
“Không thuỷ điện nào không có trong quy hoạch.” Nghĩa là, không một công trình
thuỷ điện nào nằm ngoài quyền quyết định của ngài PTT, bởi không ai khác mà
chính ông ta mới là người nắm quyền định đoạt cái gọi là “quy hoạch thuỷ điện”
đó.
Một
dự án thuỷ điện không nằm trong “quy hoạch” mà muốn được triển khai ư? Chuyện
nhỏ, chỉ cần ngài PTT phù phép bằng cách đưa nó vào “quy hoạch thuỷ điện” của
ông ta là xong. Xin đơn cử, tháng 8/2010, Hoàng Trung Hải đồng ý bổ sung dự án
thủy điện Sông Tranh 3, công suất khoảng 62 MW vào danh mục các dự án nguồn điện
tại Quy hoạch điện VI; hay tháng 6/2015, ông ta đồng ý bổ sung dự án nhà máy
thuỷ điện Ialy mở rộng vào Quy hoạch điện VII, v.v và v.v.
Trước
sự phản đối đặc biệt gay gắt của công luận, tháng 9/2013, ngài PTT buộc phải
đưa hai dự án thủy điện Đồng Nai 6 và Đồng Nai 6A ra khỏi “quy hoạch”. Báo Người
Lao Động ngay lập tức đăng bài “Xin cảm ơn Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải!”. Bài
viết mở đầu bằng câu: “Sao mà vui sướng đến muốn rơi nước mắt!” Chừng đó đủ cho
thấy quyền lực của “ông vua không ngai” Hoàng Trung Hải lớn đến nhường nào.
Và một Hà Nội đang
“bê-tông hoá”
Không
chỉ những thảm cây xanh ở những cánh rừng xa xôi, hẻo lánh, hiếm khi thấy bóng
người, mà ngay cả những hàng cổ thụ rợp bóng mát ngay giữa một Hà Nội đông đúc
nhộn nhịp mỗi khi nghe đến cái tên Hoàng Trung Hải cũng phải run rẩy, khiếp đảm.
Với
tư cách Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế, Trưởng ban Chỉ đạo Quy hoạch và đầu tư
xây dựng Vùng Thủ đô Hà Nội, Hoàng Trung Hải là nhân vật có tiếng nói quyết định
về quy hoạch thủ đô từ năm 2007 đến năm 2016, với sở thích đặc biệt là triệt hạ
cây xanh và “bê-tông hoá” Hà Nội. Từ sau Đại hội XII, được Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đặc biệt tin tưởng giao phó trọng trách thống lĩnh bộ máy dân sự và
quân sự của Thủ đô, ngài Bí thư Thành uỷ lại càng thoả sức phát huy sở trường của
mình.
Lý
lẽ của ngài ư, rất đơn giản: “Chặt cây ai cũng tiếc, nhưng chẳng lẽ không làm
gì” (!!!).
Theo
GS Vũ Trọng Hồng, với diện tích rừng đầu nguồn bị phá, dù có đầu tư tiền để tái
sinh thì cũng phải 50 năm mới phục hồi, mới ngăn được dòng chảy. Nghĩa là nếu
ngay từ bây giờ 90 triệu dân Việt Nam bắt tay vào việc xử lý những “di sản” do
“con ngựa thành Troy” Hoàng Trung Hải để lại thì cũng phải mất ít nhất nửa thế kỷ
nữa chúng ta mới hoàn toàn khắc phục được hậu quả.
Không
chỉ rừng Việt Nam, mà hàng nghìn linh hồn oan nghiệt đang réo gọi tên ngài,
thưa ngài Bí thư Thành uỷ Hà Nội!
No comments:
Post a Comment