Thứ Ba, 2 tháng 5, 2017
Sau ngày 30-4-1975, và trong một thời gian khá dài,
có lẽ đến 10-15 năm, phần đông người Việt ở hải ngoại đều có một nhận định
chung không tốt về cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu như sau: một nhà lãnh đạo
hèn nhát, đào ngũ, bỏ rơi đồng đội và đồng bào, và là người lãnh đạo chịu
trách nhiệm hoàn toàn về sự sụp đổ quá nhanh của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Nhận
định này, mặc dù phổ biến, và dựa vào một số sự việc đã xảy ra trong các tháng
3-4/1975, chỉ là do cảm tính, không dựa vào bất cứ tài liệu khả tín nào cả.
Gần như ai cũng biết và nhớ câu nói nổi tiếng của ông “Ðừng
nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm,” nhưng
hình như đó cũng là sự đánh giá duy nhứt của nhân dân Miền Nam về
sự nghiệp chính trị của ông. Nhưng dần dà sau đó, với sự ra đời của một số
sách và bài báo ngày càng nhiều, cả Việt ngữ lẫn Anh ngữ, của một số tác giả
nghiêm túc, và dựa trên những tài liệu mật của Chính phủ Hoa Kỳ đã được giải mật,
nhận định của người Việt hải ngoại về ông đã có phần thay đổi. Bài viết
này cố gắng đưa ra một đánh giá trung thực, khách quan về vị nguyên thủ quốc
gia này của VNCH. Tiêu chuẩn mà người viết sử dụng trong việc đánh giá lại nhân
vật lịch sử này gồm 3 yếu tố: 1) Quá trình đào tạo và kinh nghiệm thực tiễn; 2)
Cách ứng xử, quyết định và hành động; và 3) Khả năng chính trị và cầm quyền. Việc
đánh giá này tập trung trong 3 giai đoạn quan trọng trong cuộc đời chính trị của
nhân vật này: 1) Trước cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, 2) Từ sau cuộc đảo chánh
ngày 1-11-1963 cho đến ngày 30-10-1967; và 3) Từ ngày 1-11-1967 cho đến khi ông
từ chức Tổng Thống VNCH vào ngày 21-4-1975.
*
*
Thứ Tư, 3 tháng 5, 2017
Giai
Đoạn Từ Khi Trở Thành Tổng Thống VNCH Cho Đến Khi Từ Chức
Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đã đảm nhận
trọng trách Tổng Thống VNCH gần trọn 2 nhiệm kỳ (mỗi nhiệm kỳ, theo
Hiến Pháp ban hành ngày 1-4-1967, là 4 năm), trong một khoảng thời gian
chính xác là 7 năm, 5 tháng và 21 ngày, từ ngày 31-10-1967 đến ngày
21-4-1975.
Người viết sẽ nhận định và đánh giá những
việc ông đã làm với tư cách Tổng Thống VNCH trong 3 lãnh vực: chính
trị, quân sự, và kinh tế – xã hội. Người viết sẽ sử dụng hệ
thống điểm như sau: A (Xuất sắc = 4), B (Giỏi = 3), C (Khá = 2), D (Kém
= 1), và F (Thất bại, không đạt yêu cầu = 0).
Trước khi tiến hành công việc đánh giá này,
chúng ta cần nhận định rõ hai điều sau đây về Tổng Thống Thiệu để
có thể thật sự công bằng trong việc đánh giá những việc làm của
ông: 1) Ông đã có được một thời gian hơn 2 năm (từ ngày 13-6-1965 đến
ngày 30-10-1967) tập sự cầm quyền với tư cách là Chủ Tịch UBLĐQG,
tức Quốc Trưởng; 2) Trọn thời gian làm Tổng Thống gần 8 năm của ông,
VNCH là một quốc gia trong thời chiến với những khó khăn về mọi mặt,
và còn phải chịu rất nhiều áp lực từ phía quốc gia cung cấp các
phương tiện chiến đấu là Đồng Minh Hoa Kỳ.
*
*
Thứ Năm, 4 tháng 5, 2017
Ông đến Sài Gòn với tinh thần lạc quan đó.
Nhưng mọi việc đã diễn ra không phải như ông mong đợi. Hai phái đoàn
Hoa Kỳ và VNCH bắt đầu họp từ ngày 19-10-1972. Việc đầu tiên Kissinger
làm là trình cho Tổng Thống Thiệu lá thư riêng của Tổng Thống Nixon
viết cho ông, với nội dung chính là khuyên Tổng Thống Thiệu chấp nhận
bản thỏa hiệp, trong đó có câu sau đây: “I believe we have no
reasonable alternative but to accept this agreement.” 54 (Xin
tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Tôi tin rằng chúng ta không có
giải pháp nào hợp lý hơn là chấp nhận bản thỏa hiệp này”). Ông
Thiệu đọc xong không bình luận gì cả và bắt đầu phiên họp ngay.
Phía Hoa Kỳ gồm có: Cố Vấn Kissinger, Đại sứ
Bunker và phụ tá là ông Charles Whitehouse, ông William Sullivan của Bộ
Ngoại Giao, ông Winston Lord của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia và thông dịch
viên David Engel. Phía VNCH gồm có: Tổng Thống Thiệu, Phó Tổng
Thống Trần Văn Hương, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Ngoại Trưởng Trần Văn
Lắm, Phụ Tá Đặc Biệt Nguyễn Phú Đức, ông Trần Kim Phượng, Đại sứ
VNCH tại Hoa Kỳ, ông Phạm Đăng Lâm, Trưởng Phái Đoàn VNCH tại Hòa Đàm
Paris, và ông Hoàng Đức Nhã với tư cách thông dịch viên. Sau khi
nghe ông Kissinger trình bày về thỏa hiệp, phía VNCH đã đặt một số
câu hỏi. Cuối phiên họp Tổng Thống Thiệu bảo ông Kissinger là phía VN
cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng bản thỏa hiệp. Sáng ngày 21-10-1972, phía
VNCH yêu cầu phía Hoa Kỳ sửa lại bản thỏa hiệp tất cả 23 chổ trong
văn bản. Một phiên họp tại Dinh Độc Lập để thảo luận về 23 điểm này
được ấn định vào lúc 2 giờ chiều. Sau đó phiên họp được phía
VNCH dời lại đến 5 giờ chiều mà không cho biết lý do. Đến 5 giờ
cũng không thấy động tịnh gì về phía VNCH cả. Đại sứ Bunker gọi
điện thoại vào Dinh Độc Lập thì được báo cho biết là Tổng Thống
Thiệu đang bận họp Hội Đồng Nội Các. Nửa tiếng đồng hồ sau, ông
Hoàng Đức Nhã gọi điện thoại đến báo cho phái đoàn Mỹ biết buổi
họp đã được dời lại 8 giờ sáng hôm sau và sau đó cúp máy, không một
lời giải thích. Ngày hôm sau, Chúa Nhựt, 22-10-1972, lúc 8 giờ
sáng, trong phiên họp chỉ có 4 người, Tổng Thống Thiệu và ông Hoàng
Đức Nhã một bên, và Kissinger và Đại sứ Bunker một bên, Tổng Thống
Thiệu cho biết ông không đồng ý rất nhiều điểm trong thỏa hiệp, nhưng
quan trọng nhứt là 2 chuyện sau đây: 1) Bắc Việt không rút quân; và 2)
Thành phần và hoạt động của HĐHGDT. Ông cũng cho biết ông cần
tham khảo Quốc Hội và chờ đợi báo cáo của các cố vấn của ông về
phản ứng của Hoa kỳ đối với 23 điểm mà phía VNCH đã đề nghị sửa
lại. Và hẹn gặp lại Kissinger vào 5 giờ chiều để trả lời dứt
khoát về bản thỏa hiệp. Tại buổi họp lúc 5 giờ chiều, với
thành phần giống như vào buổi sáng, Tổng Thống Thiệu, nói bằng
tiếng Việt và ông Hoàng Đức Nhã dịch sang tiếng Anh, dứt
khoát từ chối không ký thỏa hiệp. Trong hồi ký của
mình, Kissinger ghi lại là trong lúc trình bày, cả hai ông Thiệu và
ông Nhã có lúc bật khóc.55 Mặc dù thất bại hoàn toàn
trong việc thuyết phục Tổng Thống Thiệu, Kissinger vẫn giữ dự định ra
Hà Nội để ký tắt thỏa hiệp với Bắc Việt, nhưng Tổng Thống Nixon
không đồng ý56 và ra lệnh cho ông phải quay về Mỹ
ngay. Kissinger trở về Hoa Kỳ ngày 23-10-1972. Trước khi rời Sài
Gòn, Kissinger đã đến Dinh Độc Lập gặp Tổng Thống một lần chót vào
buổi sáng. Phiên họp này diễn ra nhẹ nhàng hơn rất nhiều, nhưng
Tổng Thống Thiệu vẫn khẳng định 3 điều: 1) Bắc Việt phải rút quân;
2) Khu Phi Quân Sự phải được tôn trọng; và 3) Thành phần của HĐHGDT
phải được quyết định dựa trên kết quả của một cuộc trưng cầu dân
ý. Kissinger hứa sẽ cố gắng thương thuyết trở lại với Bắc Việt
những điểm này. Chiều hôm đó Tổng Thống Thiệu ra trước lưỡng
viện Quốc Hội, đọc một bài diễn văn (có trực tiếp truyền hình cho
cả nước), trình bày mọi việc và được Quốc Hội hoan hô và ủng hộ
rất mạnh. Phụ Tá Đặc Biệt Nguyễn Phú Đức đề nghị và Tổng Thống
Thiệu đồng ý thực hiện: cử các cố vấn của ông đi trình bày và
giải thích quyết định của Chính phủ VNCH cho các nước bạn và đồng
minh trong vùng để tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của họ đối với
lập trường của VNCH về vấn đề hòa đàm. Phụ Tá Nguyễn Phú Đức
đi các nước Cam Bốt, Lào, Thái Lan, và Indonêxia. Đại sứ Trần Kim
Phượng đi các nước Singapore, Mã Lai Á, Úc, và Tân Tây Lan. Đại
sứ Phạm Đăng Lâm đi các nước Phi Luật Tân, Đại Hàn, và Nhật Bản.57
*
*
Thứ Sáu, 5 tháng 5, 2017
Nội
Dung Của Lệnh
Về mặt nội dung, lệnh của Tổng Thống Thiệu
gồm 2 phần: 1) Bỏ Pleiku-Kontum, rút toàn bộ quân chủ lực của Quân
Ðoàn II về vùng duyên hải; và 2) Tổ chức lại lực lượng để phản công
tái chiếm Ban Mê Thuột. Quân Ðoàn II chỉ thực hiện được phần 1
của lệnh này; phần 2 của lệnh này không bao giờ được thực hiện vì,
trên thực tế, sau cuộc triệt thoái, Quân Ðoàn II không còn hiện hữu
nữa. Lệnh của Tổng Thống Thiệu, như đã nói ở trên, là: “rút
nhanh, gọn để bảo toàn sự bất ngờ,” nhưng hoàn toàn không
có nói gì hết về khung thời gian, như vậy có thể được xem như giao
toàn quyền cho Tướng Phú quyết định về khía cạnh này. Và
Tướng Phú, trong cuộc họp với các sĩ quan cao cấp tại Bộ Tư Lệnh
Quân Ðoàn II của ông vào đêm 14-3-1975, đã quyết định bắt đầu ngay
cuộc triệt thoái vào sáng ngày 16-2-1975, nghĩa là chỉ sau
có 1 ngày chuẩn bị (15-3-1975) mà thôi, nghĩa là, trên thực
tế, có thể xem như là không có chuẩn bị gì cả, một
điều gần như không có thể nào tưởng tượng được cho một cuộc hành
quân ở cấp quân đoàn. Một điều cũng không bình thường là ngay cả
lệnh hành quân trên giấy tờ mà lẽ ra Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn phải gửi
cho các đơn vị trực thuộc Quân Ðoàn cũng không có luôn.
No comments:
Post a Comment