Đỗ Trường
Tháng Năm 24, 2017
Cuối tuần, có bác nhà thơ già đến thăm, ghé
mắt vào bài đang viết về nhà văn Trần Hoài Thư của tôi, rồi gật
gật, lắc lắc, bảo: Cái tựa, Người ngồi vá lại những linh hồn, thấy
rờn rợn thế nào ấy. Vâng! Khi chưa đọc, chưa nghiên cứu Trần Hoài Thư,
bác có cảm giác vậy thôi. Đọc rồi, bác sẽ thấy, một Trần Hoài Thư
không chỉ đang ngồi vá lại linh hồn mình, đồng đội mình, mà còn đang
nhặt nhạnh những linh hồn văn hóa Việt rách nát, vương vãi đâu đó,
rồi cặm cụi khâu lại nữa kìa.
Trần Hoài Thư
Nghe tôi trả lời, bác nhà thơ già gật gù,
gật gù lẩm bẩm: Được, tôi sẽ tìm đọc, xem có thật vậy không?
Phải nói thẳng, Trần Hoài Thư không phải là
một nhà văn, nhà thơ lớn, lừng lững tên tuổi trên văn đàn của Văn học
miền Nam trước 1975, cũng như ở hải ngoại hiện nay. Nhưng ông là một
trong những nhà văn tôi yêu mến nhất của nền văn học Việt Nam từ
trước đến nay. Bởi, ngoài tài năng, thì nhân cách lòng quả cảm, dám
hy sinh, đi đến tận cùng của sự đam mê, cũng đầy trách nhiệm với văn
hóa, văn chương nước nhà như ông, không phải ai cũng làm được. Và có
lẽ, nhiều người đọc, nghiên cứu ông đồng cảm với tôi về điều này
(?).
Nhà văn Trần Hoài Thư tên thật là Trần Qúi
Sách, sinh năm 1942 tại Đà Lạt. Dường như, cái tên Qúi Sách này, đã
vận thẳng vào cái nghiệp viết, và nâng niu gìn giữ từng trang sách,
hồn thơ Việt của ông chăng? Truyện ngắn “Nước Mắt Tuổi Thơ“ in
trên tạp chí Bách Khoa Sài Gòn vào năm 1964 là chiếc thẻ thông hành
đã đưa Trần Hoài Thư đến với làng văn. Sau khi tốt nghiệp ngành toán
học, trường Đại học Sài Gòn, ông về giảng dạy trung học tại Tam Kỳ.
Năm 1966 Trần Hoài Thư nhập ngũ khóa 24 Trường Sĩ quan trừ bị
Thủ Đức. Và gần mười năm trong quân ngũ, lúc là lính thám kích, khi
là phóng viên chiến trường, dường như không lúc nào ông ngừng viết.
Nhật ký chiến trường, hoặc những truyện ngắn, tản văn thời kỳ ấy,
không chỉ có khói súng, mùi đạn bom quyện với máu thịt ông, đồng
đội ông, mà còn thấm đẫm nước mắt của tình yêu, tình người. Sau
30-4-1975, Trần Hoài Thư bị tù cải tạo. Ra tù, năm 1980 ông vượt biển,
hiện đang viết và làm chủ cơ sở xuất bản Thư Ấn Quán, cũng như Thư
Quán Bản Thảo, một tạp chí văn học tại New Jersey Hoa Kỳ.
Có thể nói, thơ văn cũng như thân phận người
lính Trần Hoài Thư gắn chặt với những biến cố thăng trầm của đất
nước. Do vậy, cũng như những nhà văn cùng thời, cái sự nghiệt ngã
ấy, đã ngắt thơ văn ông thành từng giai đoạn thật rõ ràng.
Tuy bước chân vào làng văn bằng văn xuôi, nhưng
thơ đã đóng góp không nhỏ tạo nên một chân dung vạm vỡ Trần Hoài Thư.
Với 14 tập truyện, cùng 8 tập thơ (?) đã xuất bản, minh chứng Trần
Hoài Thư có sức viết dẻo dai, và khá cân đối. Với tôi Truyện Từ Văn
và Truyện Trần Hoài Thư (rút từ các tập san) viết trước 1975, được
in lại trong mấy năm gần đây, cùng với thơ, và tập truyện Ra Biển Gọi
Thầm, Hành Trình Của Một Cổ Trắng là những tác phẩm tiêu biểu cho
bút pháp trong từng giai đoạn sáng tác của ông.
Khi đi sâu vào nghiên cứu, tôi nhận ra, ngoài
tính chân thực, thì nghệ thuật miêu tả (diễn biến) nội tâm nhân vật
là đặc điểm nổi bật nhất trong truyện của Trần Hoài Thư. Nghệ thuật
này là một tài năng, tìm tòi liên tưởng chứ dứt khoát không phải do
ông xuất thân từ nhà giáo, đã kinh qua những giáo trình tâm lý học.
Bởi, cũng có nhiều nhà văn xuất thân từ nhà giáo, nhưng không có đặc
điểm này.
*Chiến
tranh, dưới cái nhìn và ngòi bút nhân bản của nhà văn.
Nếu phải đưa ra một câu trả lời, với tôi Trần
Hoài Thư, Phan Nhật Nam, Thế Uyên là những nhà văn hàng đầu viết về
người lính của văn chương miền Nam ở thời điểm nóng bỏng nhất của
cuộc chiến. Và cùng với Cao Xuân Huy và Phạm Tín An Ninh ở giai đoạn
sau 1975 cho đến nay, nơi hải ngoại.
Có một điều đặc biệt, Trần Hoài Thư là một
người lính chiến thực thụ và viết ngay nơi chiến trường. Hơn thế
nữa, nhiều nhà phê bình đánh giá, nhận định ông là nhà văn quân đội.
Nhưng đọc ông, cho tôi cảm giác, dường như có những lúc linh hồn ông
đã tách ra khỏi cuộc chiến, rời bỏ chiếc áo nhà binh. Bởi, ngoài
những người lính, còn có không ít truyện viết về tình yêu, về cái
thuở học trò với những cuộc sống thường nhật, hay về cả những khi
phản kháng đào ngũ, bỏ đơn vị nó hằn đậm trên trang viết của ông ở
cái thời binh đao khói lửa ấy.
Có lẽ, ngay từ buổi ban đầu, Trần Hoài Thư
chưa có ý thức rõ ràng về chiến tranh, với những lý tưởng cao đẹp
nào đó. Cho nên, bước chân vào quân trường là nghĩa vụ bắt buộc đối
với ông. Sự chán chường ấy, ta đã bắt gặp rất nhiều trên những trang
viết của Trần Hoài Thư. Giai đoạn đó với ông, dù có đứng ở bên nào,
góc độ nào thì cuộc chiến này cũng đều vô nghĩa. Do vậy, không chỉ
ở truyện ngắn văn xuôi, mà ngay trong thơ ta thấy tương lai mịt mù với
những lời thán ca đau đến nhức nhối lòng người:
“Thế hệ chúng tôi mang đầy vết sẹo
Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra tòa chung thẩm
Treo án tử hình ở tuổi thanh xuân
Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra tòa chung thẩm
Treo án tử hình ở tuổi thanh xuân
Thế hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích
Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá khứ tương lai, tháng ngày mất tích
Đàn ngựa rũ bờm, không biết về đâu“ (Thế hệ chiến tranh)
Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá khứ tương lai, tháng ngày mất tích
Đàn ngựa rũ bờm, không biết về đâu“ (Thế hệ chiến tranh)
Với cái nhãn quan như vậy, cho nên người lính
Trần Hoài Thư luôn ước nguyện, hy vọng trở về quê hương, nơi có cuộc
sống bình dị, và cũng thật yên bình: “…Anh nghĩ rồi đây chiến
tranh sẽ chấm dứt. Miền Nam và miền Bắc sẽ sum họp. Mọi người sẽ ngồi lại và
tha thứ lẫn nhau. Rồi em về Nha Trang. Anh cũng trở lại cùng Nha Trang. Anh sẽ
xin dạy trở lại. Rồi anh sẽ xin cưới em…”(Nha Trang).
Và cái suy nghĩ đơn giản, vô tư ấy, ông đã
trả giá bằng chính những năm tháng ngục tù, rồi buộc phải cùng với
con thuyền lá tre kia lao ra biển cả.
Có thể nói, tính nhân đạo là đặc trưng nổi
bật nhất, xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của Trần Hoài Thư. Cái tình
người, và sự cảm thông ấy không chỉ nằm trong tình đồng đội, tình
đồng bào, mà nó còn là hơi ấm cho cả những người lính ở bên kia
của chiến tuyến. Cái đặc tính này, gần đây dường như nó được tiếp
nối một cách rất sâu sắc trong trang văn, truyện ngắn của đồng đội
ông, nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Ngày Thanh Xuân, một truyện ngắn điển hình như
vậy, được Trần Hoài Thư viết vào mùa xuân 1972. Chúng ta hãy đọc lại
lời thoại của hai đoạn trích dưới đây giữa một tù binh bị thương
miền Bắc với người lính miền Nam, khi ở ngoài chiến trường, cũng như
lúc ở quân y viện. Để thấy rõ tài năng miêu tả diễn biến nội tâm
nhân vật, cũng như sự nhân đạo và sự cảm thông ngút trời ấy của
Trần Hoài Thư:
“Mong anh hiểu trách nhiệm và bổn phận của chúng
tôi, những người lính khác trận tuyến với các anh. Anh hãy để chúng tôi săn
sóc. Hy vọng một ngày hòa bình, anh sẽ trở về quê hương và tôi được dịp đáp tàu
ra Bắc, như niềm mơ ước của tôi. Mời anh một điếu thuốc thơm, anh vui lòng chứ?
Anh uống cà phê nhé. Cà phê tôi mang theo trong bi-đông…
Nếu tôi còn ở miền Bắc, có lẽ bây giờ tôi là đồng
chí của anh. Chúng ta đều bị bắt buộc cầm súng. Chúng ta bị chủ nghĩa, ngoại
bang, các thế lực quốc tế xô đẩy chúng ta vào hố thẳm của hận thù. Anh đồng ý với
ý kiến của tôi không? – Phải, tôi đồng ý – Y thầm thì – Tôi đã hiểu rằng những
người tuổi trẻ của Việt Nam là những đứa con tội nghiệp. Chúng ta lỡ sinh vào một
thế kỷ bất hạnh nhất. Chúng ta được giao truyền lại một gia tài bi đát nhất…”
Không chỉ đối với những người còn sống, hay
người tù binh tàn tật, mà lòng nhân đạo, và tình thương ấy đến với
cả người lính đối phương vừa chết trận của Trần Hoài Thư. Và nếu
văn là những lời sẻ chia, cảm thông, thì thơ ông như một tiếng ru cho
linh hồn của đồng loại đã nằm xuống trong trận chiến này. Tôi đã
đọc khá nhiều thơ của những người lính, thuộc cả hai chiến tuyến
viết cho đồng đội nằm xuống. Từ đó có thể nói, Khi Chưa Có Mùa Thu
là một trong những bài thơ hay nhất của người lính phía Bắc Trần
Mạnh Hảo. Và vắt cơm nhòa nước suối, hay nhòa nước mắt để viếng
(cúng) đồng đội của Trần Mạnh Hảo làm cho người đọc phải rưng rưng,
xúc động: ”Vắt cơm nhòa nước suối/ Viếng bạn mình không
ăn”. Nhưng đặc biệt, cao cả hơn thế nữa, người lính phương Nam
Trần Hoài Thư đã tiễn đưa hồn người lính Bắc bằng những ly rượu
nồng với những câu thơ đẹp và vô cùng lãng mạn, đọc lên ai cũng bùi ngùi,
xót xa. Và tôi tin lúc đó, Trần Hoài Thư đã dứt bỏ hoàn toàn mọi
áp lực xung quanh, mà chỉ còn trái tim đa cảm, bao dung đang rung lên
của người nghệ sĩ, để viết nên bài thơ này. Tôi không dám nghĩ, đây
là bài thơ độc nhất vô nhị, dù được viết trong lúc chiến tranh đang
diễn ra ác liệt. Nhưng có lẽ, nó là bài thơ lạ lùng nhất đến nay
tôi được đọc. Vâng! Và chính nó, bài thơ Một Ngày Không Hành Quân của
Trần Hoài Thư đã làm cho những giọt nước mắt của tôi rơi ngay trên
bàn phím này:
“…Tôi rót mời một người lính Bắc
Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
Trên người vẫn còn sót lại bài thơ
Trên đồi cao mây vẫn xanh lơ
Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng
Tôi với hắn đâu có gì thống hận
Bài thơ nào cũng viết để yêu em”
Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
Trên người vẫn còn sót lại bài thơ
Trên đồi cao mây vẫn xanh lơ
Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng
Tôi với hắn đâu có gì thống hận
Bài thơ nào cũng viết để yêu em”
Hoàn toàn không có ý so sánh, nhưng như có
một sợi dây liên cảm, bởi khi đọc truyện ngắn Chiến Tranh của Trần
Hoài Thư, làm cho tôi nghĩ đến những người lính gian khổ chống phát
xít trong tiểu thuyết, tập truyện: Họ Đã Chiến Đấu Vì Tổ Quốc, hay
Số Phận Con Người… của nhà văn Nga Mikhail Sholokhov. Trong cái không
khí mịt mù khói lửa ấy, sự nguy hiểm, gian nan càng tăng lên, thì
tình chiến hữu đồng đội của họ càng hòa quyện chặt vào nhau hơn.
Và đứng trước thất bại cũng như cái chết, dường như đã cho Trần
Hoài Thư nghị lực vượt qua tất cả để sống, để viết trả nợ đồng
đội. Lời văn tự sự nhanh và mãnh liệt, với ngôn ngữ, câu thoại mang đậm
tính điện ảnh, gần tâm lý độc giả Âu- Mỹ, Trần Hoài Thư đã cho ta
thấy rõ điều đó:
“- Mày hãy nghe tao nói. Mày là nhà văn. Tao là độc
giả của mày. Mày phải sống. Mày nghe rõ chưa. Mày phải sống để mà viết lại…
Rồi hắn gào lớn:
– Phải viết lại cảnh này. Thằng Trí, thằng Luông
đang nằm cạnh tao đây cũng cần mày. Thằng Trí cõng tao, rồi chết vì tao… Mày
hãy nói cho mọi người biết về những cái chết chó má như thế này. Chết mà không
được bắn một viên đạn như thế này…
– Tư. Tao xin nghe mày. Tôi đau đớn nói.
– Tao dẫu sống cũng vô ích. Hai chân tao, ngực
tao, ruột tao… Chỉ còn cái đầu tao là không trúng đạn… Rồi hắn la. Không, hắn mắng
tôi.
– Sao lại không chịu chạy. Mày hèn à. Diều hâu
mà hèn à…”
Chập chờn ký ức hiện về, cùng những tình
tiết hiện thực đan xen, tạo nên hình ảnh so sánh ẩn dụ làm cho người
đọc phải ám ảnh rờn rợn, xuyên suốt những tác phẩm của Trần Hoài
Thư. Với thủ pháp nghệ thuật này, đã góp phần không nhỏ tạo nên
thành công, cũng như tên tuổi tác phẩm, tác giả Trần Hoài Thư. Nhiều
thế hệ các nhà văn trẻ sau ông sử dụng khá thành công thủ pháp nghệ
thuật này, đặc biệt cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh. Và Mắt
Đêm là một truyện ngắn điển hình như vậy của Trần Hoài Thư. Tuy
khoác áo lính, bước vào cuộc chiến là nghĩa vụ bắt buộc, nhưng
Trần Hoài Thư luôn giữ vững quân kỷ của người trung đội trưởng, và
trách nhiệm bảo vệ dân chúng, đồng bào được ông đặt lên hàng đầu.
Đọc nó, không chỉ thấy được cái tình của người lính Việt Nam Cộng
Hòa đối với người dân nơi chiến trường (dù biết họ có thể là nằm
vùng, hay có quan hệ, che chở cho những người lính Bắc) mà Trần Hoài
Thư còn đưa ta ngược về ký ức với hình ảnh tuổi thơ xa vời vợi của
ông. Có thể nói, đây là một trong những truyện ngắn hay nhất của
Trần Hoài Thư được viết trong thời kỳ này:
“Thằng Trung cầm trái M.26, sắp bỏ vào miệng rút chốt.
Tôi gọi giựt: Khoan đã. Muốn chết hả? Trung nói: Thiếu úy, em nghe tiếng động
trong hầm, bọn nó núp trong hầm, thiếu úy. Tôi nạt: Mà tưởng bắt bọn nó dễ dàng
như vậy sao? Trung cầm trái lựu đạn, phân bua: Thì ở đây là bọn nó rồi còn gì.
Tôi nói: Lỡ dưới hầm toàn dân không thì? Tôi chỉ tay vào trái lựu đạn cay, sao
mày không dùng thứ này?…
Tôi không thể chịu nổi những gương mặt thảm thê, những
đôi mắt ngơ ngác sợ sệt đó. Mụ đàn bà nhìn tôi van lơn. Hai ông già tiếp tục
nhìn ra cánh đồng chói nắng… Tôi muốn nhắm mắt lại, ngủ một giấc, một giấc
thôi. Mẹ tôi ở đó, những đêm ôm chặt tôi trốn dưới gầm giường. Đạn réo ngoài
sân, ngoài ngõ, ngoài hiên. Đạn réo trên đầu, trên mùng, Mẹ tôi ở đó, trên sân
nắng, hai tay để lên đầu, khóc lóc nhìn bọn lính Tây tra hỏi. Vẫn những giọt nước
mắt, vẫn những tiếng khóc lóc, như một âm vang từ xa xôi vọng lại, từ một quê
hương, một xóm làng đìu hiu.”
Vẫn những đêm ngủ rừng, hay trên gò mả giữa
cánh đồng trắng trơn, hoặc xông vào những trận đánh kinh hồn, nhưng
dường như giấc mơ, nỗi nhớ vẫn không thể thiếu trên mỗi chặng đường
hành quân của Trần Hoài Thư. Tình yêu và cái thuở ban đầu ấy, như
những cơn mưa đầu mùa tưới mát cho tâm hồn chai sạn của người lính
chiến. Với tôi, trong các nhà văn quân đội VNCH (trực tiếp cầm súng)
nơi chiến trường ác liệt, viết nhiều và hay nhất về tình yêu, và
cái thuở học trò, chắc chắn phải là Trần Hoài Thư. Thật vậy, đọc
truyện Nụ Hoa Vàng Của Ngày Si Tình của ông, cho tôi cảm giác như đang
đọc một bài thơ. Một bài thơ tự sự đầy hình tượng về sự tiếc nuối
một mối tình đầu của thuở hoa niên. Tuy nhiên ông bạn nhà thơ già của
tôi, ghé mắt đọc, không cho là như vậy. Vì thế, khi ngồi viết những
dòng chữ này, tôi chưa biết để Nụ Hoa Vàng Của Ngày Si Tình ở mục
truyện ngắn, tùy bút, hay một trang thư…Nếu đây là một lá thư, thì
có lẽ, đây lá thư tình hay nhất mà tôi đã được đọc. Và đọc nó,
khẳng định thêm một lần nữa tài năng miêu tả tâm lý, nội tâm nhân vật
của nhà văn Trần Hoài Thư:
“…Trên mái ngói đỏ của ngôi trường nữ trung học, có
đôi chim bồ câu âu yếm tỉa lông cho nhau. Nhưng, riêng anh, cả lòng như một bến
ga quạnh quẽ. Đứng bơ vơ, mà nghe trong gió có một cung đàn kỷ niệm. Cung đàn ấy,
vọng từ một cõi nào xa xôi lắm, có vỉa hè Đồng Khánh, có cả rừng bướm trắng dập
dìu, và có một kẻ tình si đang trồng chân như cây phượng vĩ già nua, nhìn theo
một cánh bướm, qua sông vĩnh biệt…”
Trong văn học sử miền Nam có hai ông nhà văn
vừa cầm súng vừa viết Phan Nhật Nam và Trần Hoài Thư, cùng chung
cảnh cải tạo tù tội sau 1975, nhưng lại có văn phong khác hẳn nhau.
Nếu văn Phan Nhật Nam sinh động, sắc sảo, thì văn Trần Hoài Thư trầm
lắng, hình tượng. Phan Nhật Nam động thì Trần Hoài Thư tĩnh. Âu đó
cũng là sự may mắn làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam.
Và Viễn Thám là một truyên ngắn hay, có lời
văn đẹp, tĩnh lặng như vậy của Trần Hoài Thư. Đây là truyện ngắn làm
cho người đọc ngạc nhiên, bất ngờ và gây ra nhiều tranh cãi. Nó mở ra
tư tưởng cũng như nhân sinh quan của ông. Có lẽ, không riêng tôi, mà còn
nhiều người đánh giá cao giá trị nội dung cũng như quan niệm, thay
đối tượng thẩm mỹ trong chiến tranh của tác giả trong truyện ngắn
này. Hơn thế nữa, nó không chỉ đẹp trong từ ngữ lời văn, mà trong cả
tâm hồn và trong cái tình của người lính thám báo, nhà văn Trần
Hoài Thư. Và nó khác hẳn hình ảnh người thám kích dã man, tàn bạo
trong truyện của Bảo Ninh và Dương Thu Hương. Tôi nghĩ, Bảo Ninh, Dương
Thu Hương viết Nỗi Buồn Chiến Tranh và Vô Đề vào những năm cuối thập
kỷ tám mươi của thế kỷ trước, khi chưa bốc (hết) được ngôi mộ với
con ma xó tuyên truyền bấy lâu ra khỏi linh hồn mình. Nếu những cuốn
sách ấy được ra đời vào thời điểm ngày nay, có lẽ sẽ khác đi chăng?
Đọc truyện này, có lẽ nhiều người phản bác, cho rằng Trần Hoài Thư
hành động bằng cảm tính. Và bằng chứng dường như có những đoạn văn
của ông bị xét duyệt cắt bỏ khi in ấn vào thời điểm ấy chăng? Ơ hay!
Trần Hoài Thư mang trái tim nghệ sỹ vào chiến tranh cơ mà. Và trong
chiến tranh dường như, những người nghệ sỹ cầm súng luôn có tâm hồn,
suy nghĩ như vậy. Nhưng dám hành động, và viết thành lời như ông không
phải ai cũng đủ dũng khí. Chúng ta đọc lại một đoạn trích trong Viễn
Thám (tuy nhiên, có đoạn khi duyệt đã cắt bỏ?) để thấy rõ điều đó:
“Trung đội thám kích đang săn tin về một đơn vị
Bắc quân mới xâm nhập vùng Trường sơn, đã không ngờ gặp một cặp bộ đội đang hát
bên bờ suối. Quân thù đó nhưng người lính đã không bắn. “Tôi không thể chơi cái
trò dã man như vậy. Tôi muốn người thanh niên kia, ít ra, có một giờ phút vĩnh
cửu (…) Tiếng hát như nói lên những điều câm nín từ những con tim của tuổi trẻ
Việt Nam…. Tiếng hát như dậy khỏi mồ, bạt cả gió, khiến rừng như thể im phăng
phắc lá như thể thôi lay động trên cành. Và ít ra, tôi vẫn còn hiểu rằng, mỗi
người đều có trái tim. Và trái tim thì lúc nào cũng sống vĩnh cửu”
Có thể nói, chất liệu trong văn thơ Trần Hoài
Thư có được từ thực tế bản thân và đồng đội. Ông đã trải nó lên
trang văn dưới nhãn quan của riêng mình. Tuy có cái nhìn bi quan về
cuộc chiến, nhưng nó lại bật lên tính nhân đạo ngút trời trong từng
trang viết của ông.
*Tính
bi hài và những nỗi đau.
Có lẽ không ai nghĩ, một thư sinh với sức
trói gà Trần Hoài Thư có sức phản kháng mãnh liệt đến vậy. Sự
phản kháng ấy, không chỉ có trên trang văn, mà còn mãnh liệt hơn
trước những bất công ở ngoài đời. Trần Hoài Thư tự động rời bỏ quân
ngũ trước phi lý của số phận đã chứng minh cho điều đó. Và từ đó,
cho ta thấy được tính khí khái trong con người ông. Chứ thành thật mà
nói, một nhà văn dù có sống ở chế độ nào cũng vậy, cứ cúi mặt
xuống viết dưới cái bóng của các đấng ngồi trên, thì không bao giờ
có được những tác phẩm ra tấm ra miếng.
Ngay ngày đầu, Trần Hoài Thư đã nhận ra cái
bất công và số phận hẩm hưu của những người lính nơi tiền đồn. Do
vậy, những cay đắng, khắc khoải đó như nén chặt trong lòng văn nhân.
Và rồi, một lúc nào đó, nó sẽ chảy ộc ra bằng văn, bằng thơ, trải
dài trên trang giấy, đọc lên ai cũng phải xót xa:
“Khi ra trận ta là thằng chết trước
Tổ quốc ghi ơn, lãnh tụ đẹp lòng
Khi tìm vợ, ta là thằng chạy chót
Nên khó lòng ấp vợ đẹp trong chăn…” (Lính tiền phương)
Tổ quốc ghi ơn, lãnh tụ đẹp lòng
Khi tìm vợ, ta là thằng chạy chót
Nên khó lòng ấp vợ đẹp trong chăn…” (Lính tiền phương)
Vâng!
Và người lính ấy chưa chết hẳn, nhưng trở về với đôi nạng gỗ trên
tay. Đọc truyện Bệnh Xá Mùa Xuân, ta không chỉ thấy được sự lên án,
mỉa mai, mà còn thấy được sự tàn nhẫn của chiến tranh. Và hình ảnh
người lính cụt chân ấy, cứ tưởng mình còn nguyên vẹn, nhảy phắt
xuống giường, bị ngã úp mặt xuống đất, dường như đẩy tính bi hài,
và nỗi đau lên gấp bội. Phải nói thẳng, miền Nam có nhiều nhà văn
lớn và tài hoa, nhưng tài năng đưa hình ảnh, hình tượng vào trong văn
nhiều và hay như Trần Hoài Thư quả thực không nhiều:
“Nửa đêm, cả lòng đêm bỗng dưng bị dội lên bởi những
quả đạn rơi rất gần khu bệnh xá. Những tiếng la thất thanh. Pháo kích! Pháo
kích! Tiếp sau là những bóng người vụt chạy ra hầm núp ngoài sân. Tên
thương binh cụt chân, trong cơn bấn loạn tột độ ngỡ mình vẫn còn lành lặn như
xưa, đã ào nhảy xuống giường. Sau đó, hắn mới biết được sự thật. Hắn ôm khúc
đùi rên rỉ và nằm ngay dưới nền. Hắn không còn nhận ra cặp nạng nữa…”
Đọc và nghiên cứu tôi
thấy rất có lý, khi nhà phê bình Nguyễn Vy Khanh nhắc đến cái chất
giản dị trong văn của Trần Hoài Thư. Thật vậy, ngoài cái giản dị
trong sáng, văn thơ Trần Hoài Thư không hề đao to búa lớn. Chính những
đặc điểm ấy, đã giúp tôi đọc hết tất cả những gì ông viết, khi bắt
gặp, hoặc tìm thấy, dù bất kể đề tài, thể loại nào. Qủa thật, tôi
rất sợ đọc những bài viết lên gân quá mức cần thiết khi viết về
người lính Việt Nam Cộng Hòa của một số tác giả gần đây. Thường
những bài này, tôi bỏ nửa chừng. Là người, kể cả người lính dù có
lý tưởng gì gì đi chăng nữa, trước cái chết ai mà chẳng sợ. “Cái
chết nhẹ tựa lông hồng” không phải ai, và hoàn cảnh nào cũng có thể
dùng được. Ta đọc lại những câu thoại giữa hai người lính (là thày,
trò cũ của nhau) cùng bị thương dưới đây, trong
truyện Bệnh Xá Mùa Xuân, để
thấy cái day dứt, bi hài đi thẳng vào lòng người, tuy từ ngữ rất
mộc mạc:
“- Trời ơi, một người mang cặp kính nặng như thế mà
họ vẫn không chịu buông tha sao thầy?
Minh cười:
– Họ nói là điếc thì không sợ súng, còn mang hai cặp
mắt mới dễ bắn VC hơn.
– May mà em cụt một chân, nếu mù một con mắt họ vẫn
bắt em đi ra đánh giặc trở lại.
– Thầy không buồn đâu. Bởi vì dù sao thầy là sĩ
quan, là thiếu úy, thầy vẫn còn sướng hơn những người lính khác. Trung đội thầy
có thằng mang đại liên, tên là Nga, Võ hồng Nga, to đen như Mỹ đen, nhưng bị cận
thị nặng. Đi hành quân, nó không thấy đường, cứ nhằm chỗ VC mà tiến. Cuối cùng
nó chết.
– Thầy biết không, bởi vì nó không cổ cánh….”
Chết hoặc trở thành
tàn phế chưa phải là điều đáng sợ của người lính, mà cái đáng sợ
nhất nhận lệnh, buộc phải thi hành của những người lãnh đạo quan
liêu, và dốt nát. Đọc truyện Thế Hệ Chiến Tranh dường như cho ta một
cảm giác, đây là một bản cáo trạng của nhà văn thì đúng hơn:
“Suốt cả một buổi trưa hai thằng chúng tôi mắc nạn
không thể bò xuống đồi. Tư bị đạn trúng bã vai và chân. Còn tôi thì bị lựu đạn
làm bể cả bắp đùi. Lúc này mạnh ai nấy thoát. Bởi ai cũng biết rằng nếu ở lại
thì chết bởi những họng súng đang săn mồi từ cao điểm. Rõ ràng đây là một cuộc
thí quân. Họ ra lệnh chúng tôi phải chiếm đồi với M16, và lựu đạn, trong khi địch
ẩn núp trong những hang kiên cố, với lợi thế là thấy rõ chúng tôi, còn chúng
tôi thì như những kẻ đui mù…”
Không dừng lại nơi chiến sự, Trần Hoài Thư
tiếp tục chọc thẳng vào cái ung nhọt thượng tầng của xã hội. Khi
ông đã nhận ra, sự hy sinh cả một thế hệ để phục vụ cho những kẻ
lãnh đạo không lương thiện, thiếu tài năng này. Nếu gần đây, ta đã
đọc bút ký Sau Cơn Binh Lửa của Trung tá, nhà văn Song Vũ, thì thấy
được, những con sâu ở giới lãnh đạo thượng tầng này, góp phần không
nhỏ dẫn đến sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Có thể nói, tuy
miền Nam được tự do viết lách, nhưng ở vào thời điểm đó, Trần Hoài
Thư viết thẳng tưng như thế này, quả thật cần lắm một sự dũng cảm.
Và đoạn trích dưới đây, chứng minh cho ta thấy sự thối nát cũng như
sự can trường của nhà văn:
“Trong khi bạn bè thầy, bạn bè em cứ tiếp tục
bị chết, thì ở Sài Gòn người ta vẫn ăn chơi phè phỡn, đô la thuốc phiện
và tran giành quyền lực bằng những thủ đoạn chính trị bẩn thỉu. Ngay tại nơi
này, những đồn điền mênh mông, những khu rừng cấm mà bọn mình đem xương máu bảo
vệ là tài sản của các tướng tá hay các lãnh tụ ở Sài Gòn. Chúng ta cứ chết, mặc
nước mắt của người mẹ, người em, để những mệnh phụ phu nhân, những bà lớn nắm
quyền mua quan bán chức. Họ đục khoét tiền viện trợ Mỹ, con cái họ được chạy đi
du học để trốn tránh trách nhiệm.”
Nỗi đau, sự trớ trêu trên những trang viết
Trần Hoài Thư không dừng lại một gia đình, một tỉnh thành, mà cho
toàn dân tộc Việt. Có thể nói, từ ngày lập quốc đến nay chưa có
trận chiến nào tang thương, thù hận bằng cuộc nội chiến huynh đệ
tương tàn vừa qua. Trần Hoài Thư chứng kiến những hiện thực bi hài
trớ trêu ấy, và tái hiện vào những trang sách, nên đôi lúc tôi cứ
nghĩ, ông không dừng lại ở nhà văn, mà còn như một nhà sử học vậy.
Nếu truyện Người Anh Hàng Xóm, cuộc đối đầu nhau trên chiến trường
giữa hai cha con đều là trung đoàn trưởng ở hai phía, thì truyện Về
Làng là nỗi đau của một người lính Việt Nam Cộng Hòa trước người
chú và chị ruột theo CS, bị chính đồng đội của mình bắn chết… Đây
là hai câu chuyện điển hình nhất trong nỗi bất hạnh của dân tộc trên
trang viết của ông. Và nó cứ ám ảnh đeo vào lòng người một sự day
dứt, không thể dứt bỏ.
Có một điều đặc biệt nữa, truyện nào của
ông cũng mang một nỗi u hoài của sự chia ly, chết chóc với những cái
kết bất ngờ bỏ ngỏ, buộc người đọc phải suy nghĩ. Nói Trần Hoài
Thư là nhà văn của những nỗi đau, thì quả thật không ngoa tẹo nào.
Khi các nhà văn cùng thời thường khai thác đề
tài ít va chạm với quyền lực, xã hội, hoặc viết về những trận
đánh, chiến công oai hùng của người lính, thì Trần Hoài Thư đi vào
bới móc cái bóng đen của chiến tranh, cũng như xã hội con người. Một
đề tài khó nhằn, khó nuốt.
Nói cho cùng, xã hội, quân đội nào cũng vậy,
đằng sau cái hào nhoáng đó, nó còn ẩn nấp bao thứ tồi tệ và bệnh
hoạn khác. Và rất cần những nhà văn như Trần Hoài Thư bóc trần, rồi
cắt bỏ.
*Ba
mươi tháng tư, và linh hồn rách nát.
Vậy là chiến tranh đã kết thúc, người lính
thám kích Trần Hoài Thư không thể về Nha Trang cưới em, và trở về
nghề dạy học của mình, như ước nguyện. Nam- Bắc thống nhất, nhưng
không thể tha thứ cho nhau, và người lính thua trận ấy bước vào vòng
lao lý. Bốn năm lưu đày ấy như bốn ngọn roi quất vào tâm hồn văn nhân.
Cặp bộ đội đứng hát bên bờ suối năm xưa, nay đã thành người quản
giáo. Tiếng hát ngày nào đổi thành lời rao giảng, để hành hạ nhau.
Đói và rét làm cho người người lính, văn nhân mất đi cả lý trí.
Mình là ai? Sinh vật hay con người? Có lẽ chỉ có trời mới biết. Sự
phản ứng vô ý thức ấy của văn nhân buộc tôi tự hỏi: Nếu bây giờ trở
lại hoàn cảnh năm xưa, người thám kích Trần Hoài Thư có bắn cặp bộ
đội đang hát bên suối hay vẫn tha? Và trái tim văn nhân có còn sống
vĩnh cửu? (như ở truyện Viễn Thám). Ta đọc lại đoạn trích trong
truyện ngắn Ra Biển Gọi Thầm, để
so sánh tư tưởng, ý thức, hành động trước và sau 30-4-1974 của nhà
văn Trần Hoài Thư:
“Nó cũng thâm độc hơn bất cứ một sinh vật nào. Nó
đái lên những con cá lóc cá trê nó câu được trước khi nạp phần cho cán bộ quản
giáo. Nó thầm lén phạt đứt cọng mạ non thay vì làm cỏ. Nó chửi thề khi hắn ngồi
nghe chính trị viên lên lớp. Nhưng nó lại chịu thua trước thiên nhiên. Bởi nước
thì quá sâu, và chảy quá mạnh. Bởi bó tràm thì quá ngỗ nghịch, cứng đầu. Nó
ngoi ngóp. Nó vùng vẫỵ Hai chân vừa đạp, hai tay vừa kéo. Mưa lạnh làm châu
thân nó run như lên cơn sốt rét. Hàm răng nó đánh cầm cập. Nó lại đóị Cái đói
ghê gớm. Cái đói tàn bạo quật ngã nó khiến nó cứ thở dốc, thở rống từng hồi từ
lồng ngực ngỡ khô cạn. Nó lảo đảo. Nó đang ở bên trời. Nó hay là tôi. Và tôi hay
là nó. Tôi cũng chẳng cần biết nữa… »
Với tôi, Ra
Biển Gọi Thầm là truyện ngắn hay và cảm động nhất trong tập truyện
cùng tên. Truyện này, Trần Hoài Thư viết khi ông đã vượt thoát sang
Hoa Kỳ. Vẫn thủ pháp nghệ thuật hồi tưởng, chập chờn của ký ức,
ông đã đưa người đọc trở về với những ngày tù tội, nơi có mối tình
cao thượng tuyệt đẹp, nhưng cũng tuyệt vọng của mình. Tôi đã đọc khá
nhiều truyện, ký của các tù nhân, cải tạo, nhưng đây là lần thứ hai
đọc truyện viết về tình yêu trong thời gian tù của họ. Và trước đó,
là truyện Nghỉ Hè
Ở Mallorca của nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Dường như càng lớn tuổi, nhất là từ sau 1975
càng gian nan Trần Hoài Thư kiệm lời hơn, nên đi vào sự cô đọng, sâu
lắng của thơ. Hơn bốn năm tù, với một linh hồn rách nát, đủ để cho
ông nhìn lại. Dù nhận được lời mời vào hội văn thơ, nhưng ra đi là
con đường duy nhất của ông. Và con thuyền lá tre chòng chành giữa
biển khơi mênh mông bão tố ấy, chở ông đi tìm tự do, hay tìm về cõi
chết? Đọc bài thơ Đêm Ra Biển của Trần Hoài Thư làm cho tôi phải rợn
tóc gáy :
«… Đêm nước mặn mà ngọt ngào nỗi chết
Đêm quá dài mà ngắn chớp tử sinh
Đêm ơi đêm, một cõi u minh
Đêm bật khóc nhìn chúng tôi tự sát… »
Đêm quá dài mà ngắn chớp tử sinh
Đêm ơi đêm, một cõi u minh
Đêm bật khóc nhìn chúng tôi tự sát… »
Vậy là Trần Hoài Thư đã vượt qua được những
chớp tử sinh. Đến được bến bờ tự do, nhưng ông cảm thấy mình bất
hạnh hơn. Mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm luôn giằng xé văn nhân. Và
từ đây, ông như con thuyền không lái, chòng chành hơn, bởi đã mất quê
hương :
« Là lúc biết mình như thoát nạn
Sáng chân trời, hồng rực vầng dương
Là lúc, thấy mình như bất hạnh
Sắp làm người không có quê hương » (Đêm tiễn biệt Việt Nam)
Sáng chân trời, hồng rực vầng dương
Là lúc, thấy mình như bất hạnh
Sắp làm người không có quê hương » (Đêm tiễn biệt Việt Nam)
Có thể nói, sau 1975 và từ khi định cư ở Hoa
Kỳ, Trần Hoài Thư viết nhiều hơn. Ông viết cho mình, viết cho đồng
đội, cho quê hương. Mỗi trang sách, bài thơ của ông như những đường kim
sợi chỉ, vá lại linh hồn cho bao người đã bị rách nát trong chiến
tranh, và trong những ngày trốn chạy lưu vong.
Tuy chưa phải là nhà văn lớn, nhưng Trần Hoài
Thư là một trong những nhà văn điển hình nhất trong hai mươi năm nội
chiến của nền Văn học Việt Nam.
Viết bài này, khi tài liệu thơ văn của Trần
Hoài Thư, tôi có không nhiều, chủ yếu tìm đọc trên Internet, (và cũng
chưa một lần gặp gỡ ông). Do vậy, không có hệ thống, có thể còn sai
sót và chưa lột tả, đi hết cái tận cùng con người, cũng như thế
giới mênh mông văn thơ Trần Hoài Thư. Nhưng đây như một lời tạ ơn của
kẻ hậu bối, đến một nhà văn suốt đời hy sinh, tận tụy cho văn chương
nước nhà.
Và hình ảnh Trần Hoài Thư, ngồi vá lại
những linh hồn in đậm trong lòng, đã thôi thúc cho tôi viết bài này.
Leipzig ngày 22- 5-2017
Đỗ
Trường
No comments:
Post a Comment