Posted on 28/04/2017
Đây là một bài viết mà người đọc cần đi đến cuối
bài.
Một cách khách quan, để nhận định một cuộc chiến diễn
ra dưới cơ chế là một cuộc xung đột nội địa hay quốc tế, trước tiên phải xác định
được danh nghĩa pháp lý của các bên tham gia, mà cụ thể hơn, họ có được xem là
quốc gia (“state”) theo quy định của pháp luật quốc tế hay không?
Sự
công nhận của cộng đồng quốc tế không quan trọng?
Pháp luật quốc tế vẫn chưa có một định nghĩa hay
tiêu chuẩn chính thức để xác định danh tính quốc gia. Cho đến nay, quốc gia,
các tổ chức và các học giả quốc tế đều dựa vào 4 tiêu chuẩn từ Điều ước
Montevideo về Quyền và trách nhiệm của Quốc gia, ký kết vào năm 1933.
Đây vốn chỉ là một điều ước khu vực giữa các quốc
gia thuộc Châu Mỹ lục địa. Tuy nhiên, theo cân nhắc của nhiều học giả, các tổ
chức học thuật có thẩm quyền (như International Law Association hay International
Law Commission) và thực hành của nhiều quốc gia khác nhau; bốn tiêu chuẩn
này thật sự chỉ pháp điển hoá tập quán pháp quốc tế. Vì vậy, chúng được xem là
căn cứ hợp pháp để xác định tư cách quốc gia.
Bốn tiêu chuẩn được ghi nhận gồm: (1) Lãnh thổ xác định,
(2) Dân cư xác định (cả hai tiêu chuẩn này không cần thiết phải tuân thủ theo một
số lượng cụ thể), (3) Chính phủ có năng lực kiểm soát hiệu quả và (4) Năng lực
tham gia vào điều ước với quốc gia khác.
Có ba điểm cần chú ý trong bộ tiêu chuẩn nói trên.
Một
là, khái niệm dân cư không đồng nghĩa với việc nó phải
thuộc một nhóm dân tộc, màu da hay tôn giáo nhất định. Theo đó, một quốc gia
không nhất thiết chỉ có dân cư thuộc một nhóm dân tộc, màu da hay tôn giáo. Ngược
lại, không nhất thiết hai nhóm dân cư cùng thuộc một dân tộc, màu da hay tôn
giáo thì phải cùng một quốc gia với nhau.
Hai
là, dù chính phủ có năng lực kiểm soát hiệu quả có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hình thành quốc gia, điều này không nên được
hiểu đồng nghĩa với việc chính phủ, chính quyền đương thời tương đồng với sự tồn
tại của chính quốc gia đó. Ta có thể hiểu rõ hơn vấn đề này thông qua vài ví dụ
như Somalia, Palestine, và Đài Loan.
Somalia tính cho đến nay, có thể đã được xem là
“failed state” – “một quốc gia thất bại”, nơi mà chính quyền trung ương biến mất
(hoặc không đủ năng lực kiểm soát quốc gia) và được thay thế bởi chủ nghĩa bộ tộc
và lãnh chúa địa phương. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là quốc gia Somalia
không còn tồn tại và ai cũng có thể xâm chiếm vùng lãnh thổ nói trên.
Tương tự, có thể nói rằng Palestine vẫn chưa có được
một chính phủ hiệu quả thống nhất lãnh đạo. Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO)
được xem là một đại diện lý tưởng cho Palestine, nhưng tranh chấp bạo lực giữa
các phe phái như Hamas hay Fatah vẫn còn đó. Mặc dù vậy, việc không có một
chính phủ hiệu quả đại diện cho nhóm dân cư này cũng không đồng nghĩa với việc
quốc gia Palestine không tồn tại.
Đài Loan, xét mọi mặt, ở một mức độ mạnh mẽ và rõ
ràng hơn, có thể xem là một quốc gia độc lập – đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của
Montevideo. Tuy nhiên, Đài Loan cũng đang đẩy mình vào thế khó theo mặt pháp
lý, tương đương với miền Nam Việt Nam mà bài viết sẽ phân tích ở phần
sau.
Ba
là, dù yêu cầu thứ tư có nhắc đến việc tham gia vào điều
ước quốc tế với quốc gia khác, điều này không đồng nghĩa với việc chính phủ đó
phải được cộng đồng quốc tế công nhận. Yêu cầu này nhằm nói đến quyền hạn và
năng lực thực thi điều ước nếu được ký kết, không phải nhằm ám chỉ rằng quốc
gia đó phải được cộng đồng quốc tế chấp nhận. Hiển nhiên, điều này cũng chỉ
mang tính tương đối.
Nhiều học giả đã và đang cân nhắc sức nặng của yếu tố
cộng đồng quốc tế, hay cụ thể nhất là việc được tiếp nhận trở thành thành viên
của Liên Hiệp Quốc (United Nations – UN). Trên thực tế, được UN hay các cường
quốc công nhận là một bước đệm quan trọng, nhưng sự đồng thuận chung của cộng đồng
học thuật thế giới và các tổ chức học thuật có thẩm quyền thì đây không phải,
và không nên là một yêu cầu bắt buộc.
Một
dân tộc – hai quốc gia? Khả dĩ.
Với những thông tin như trên, chúng ta có thể tập hợp
lại và tạo nên một bức tranh chung về “statehood” của hai miền Nam Bắc Việt
Nam.
Vĩ tuyến 17 chia cắt Việt Nam làm hai miền. Ảnh: BBC.
Trước tiên, có đủ căn cứ và cơ sở để cho rằng tồn tại
hai quốc gia tách biệt trên lãnh thổ Việt Nam từ năm 1955 cho đến năm 1975.
Cả hai quốc gia đều có lãnh thổ và dân cư xác định,
có chính phủ có năng lực kiểm soát hiệu quả; đều từng tham gia vào các hiệp ước,
hiệp định quốc tế.
Vì vậy, dù chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
các đồng minh có tuyên bố chính phủ Việt Nam Cộng hòa là ngụy quân, ngụy quyền,
bù nhìn của Mỹ; hay ngược lại, dù chính quyền Việt Nam Cộng hòa có lên án chính
quyền miền Bắc là quân cờ của Cộng sản, quên lịch sử cha ông… thì cũng không
làm thay đổi danh tính pháp lý của họ theo quy chuẩn pháp luật quốc tế.
Tuy nhiên, cách nhìn nhận này cũng không hẳn là hoàn
toàn không có kẽ hở.
Đầu tiên, cả hai quốc gia đều cho rằng mình là đại
diện hợp pháp cho toàn Việt Nam; tương tự như vấn đề “Một Trung Quốc ”
(One China) giữa Đài Loan và Trung Quốc hiện tại. Điều này cũng đồng nghĩa với
việc tranh chấp hai miền mang dáng dấp của một cuộc nội chiến hơn là tranh chấp
liên quốc gia. Tuy nhiên, theo người viết, điều này không làm mất đi bản chất
nhà nước của hai quốc gia theo tiêu chuẩn của Montevideo.
Thứ hai, phải tính đến luận điểm cho rằng Ngô Đình
Diệm, chính quyền Bảo Đại và Hoa Kỳ đã không tôn trọng Hiệp định Geneva và
không tuân thủ việc thi hành cuộc tổng tuyển cử 1956 như dự định.
Nhưng nếu cho rằng Hiệp định Geneva giải quyết được
vấn đề Việt Nam thì cũng không tôn trọng quyền dân tộc tự quyết
(self-determination) của một bộ phận người dân Việt Nam, quy định tại Khoản 2,
Điều 1, Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Đặc biệt, bối cảnh pháp lý của hai chính
quyền tồn tại song song ở thời điểm này tương đối phức tạp.
Tính chính danh của chính phủ VNDCCH chủ yếu dựa vào
cuộc tổng tuyển cử năm 1946. Tính chính danh này càng được tăng cường hơn sau
khi vua Bảo Đại chính thức thoái vị và trao lại ấn tín, quốc bảo của hoàng triều
Nguyễn cho đại diện chính Phủ VNDCCH Trần Huy Liệu ngày 25/8/1945.
Tuy nhiên, với Hiệp định Sơ bộ Pháp-Việt ngày
6/3/1946, được ký kết giữa ông Jean Sainteny, đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp,
và ông Hồ Chí Minh cùng ông Vũ Hồng Khanh, đại diện chính phủ VNDCCH; VNDCCH chỉ
còn lại phía Bắc Việt Nam (và vẫn thuộc khối Liên hiệp Pháp), miền Nam Việt Nam
vẫn thuộc nhà nước Cộng Hòa Pháp với lời hứa hẹn cho một cuộc trưng cầu dân ý –
thống nhất với VNDCCH trong tương lai. Ngày 1 tháng 6 cùng năm, người Pháp
thành lập Nam Kỳ Quốc đặt thủ phủ tại Sài Gòn.
Trong giai đoạn từ 1946 đến 1949, sự cứng đầu của cựu
vương tân Quốc trưởng Bảo Đại đối với các đại biểu Pháp cũng đã giúp Quốc Gia
Việt Nam thành lập với cơ sở của Hiệp ước Elysée (8/3/1949). Trải qua nhiều biến
cố với cuộc “đảo chính bằng phiếu” của ông Ngô Đình Diệm, chính quyền Quốc gia
Việt Nam cũng có nền tảng pháp lý khá tương đồng với Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.
Vì vậy, việc Cộng hòa Pháp tự tiếp tục cho mình toàn
quyền sắp đặt ngày tổng tuyển cử với Hiệp định Geneva là can dự vào nội bộ Việt
Nam, một việc làm không thỏa đáng, đặc biệt khi hai bên duy nhất chấp nhận ký kết
hiệp định chỉ có chính phủ kháng chiến của VNDCCH và nhà nước Cộng hòa Pháp,
còn chính phủ Bảo Đại và Hoa Kỳ đều phản đối Hiệp định.
***
Với tất cả các thông tin nói trên, cân nhắc nền tảng
pháp lý tương đồng, năng lực quản lý tương đương, có đầy đủ lý do (theo công
pháp quốc tế) để cho rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa là hai
thực thể nhà nước hoàn toàn độc lập.
Vậy nên, hành vi dùng vũ lực quân sự để tước đoạt
chính quyền, lãnh thổ của một quốc gia khác, theo định nghĩa của Điều 1, Nghị
quyết 3314 năm 1974 của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, là hành vi xâm lược theo
công pháp quốc tế.
Tài
liệu tham khảo:
Toàn văn Hiến chương Liên Hiệp Quốc
Toàn văn Nghị quyết 3314 Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc
Thomas D. Grant; Defining Statehood: The Montevideo Convention and its Discontents (Columbia Journal of Transnational Law, 1999)
James Crawford; The Creation of State of Palestine: Too much too soon? (EJIL, 1990)
A Vietnam War Timeline
Vua Bảo Đại (Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy) – Lịch sử Việt Nam
Toàn văn Nghị quyết 3314 Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc
Thomas D. Grant; Defining Statehood: The Montevideo Convention and its Discontents (Columbia Journal of Transnational Law, 1999)
James Crawford; The Creation of State of Palestine: Too much too soon? (EJIL, 1990)
A Vietnam War Timeline
Vua Bảo Đại (Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy) – Lịch sử Việt Nam
BÌNH
LUẬN
No comments:
Post a Comment