Saturday, April 4, 2009

VỀ MỘT QUÃNG ĐỜI TRỊNH CÔNG SƠN Phần V)

Về Một Quãng Đời Trịnh Công Sơn (phân V)
Nguyễn Thanh Ty
22/04/2007
http://www.vietnamreview.com/modules.php?name=News&file=article&sid=6204

Một hôm Sơn bỗng hỏi tôi:
- Này ông! Không hiểu ông Phạm Duy suy nghĩ bằng cách nào mà ổng đặt được những lời ca hay quá chừng. Tôi không ngờ được !
Tôi tán đồng và phụ họa:
- Dĩ nhiên là như vậy rồi. Từ xưa tới giờ Phạm Duy là số một. Có ai hơn được ổng đâu!
Tôi nghe Sơn nhâm nhẩm hát vài câu rồi lại hỏi:
- Như cái câu "Đêm qua ra đứng bờ ao. Trông cá, cá lặn. Trông sao, sao mờ. Buồn trông con nhện giăng tơ. Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?" Ông thấy có tuyệt không?
Tôi bật cười:
- Tưởng ông đơn cử bài gì, chớ bài này thì ổng lấy ca dao ra phổ thành nhạc. Ổng đâu có đặt lời. Ổng còn lấy thơ của người khác phổ nhạc cũng tuyệt lắm. Tôi mê hai bài thơ của Phạm Thiên Thư "Đưa em tìm động hoa vàng" và "Ngày xưa Hoàng Thị" ổng cũng phổ nhạc thật tuyệt vời.
Sơn rất ngạc nhiên, hỏi lại:
- Mình có ca dao hay như vậy sao ?
Tôi đọc một mạch hết bài "Nhớ ai"- "Buồn trông chênh chếch sao mai..." Thuận miệng, tôi đọc luôn bài "Nụ tầm xuân"- "Trèo lên cây bưởi hái hoa..."
Sơn nói:
- Đó! đó bài nữa đó! Sao lâu nay tôi không biết cà?
Đến phiên tôi ngạc nhiên:
- Từ đệ ngũ đến đệ tam, học sinh nào chẳng học môn văn chương bình dân, trong đó có ca dao, tục ngữ, hát đố, truyện cổ... Chẳng lẽ ông không biết chút gì à?
Sơn thú thật:
- Từ nhỏ tới giờ, tôi học chương trình Pháp, nên không biết gì về ca dao, tục ngữ hết.
Tôi đùa:
- Thôi rồi! Thế nào ông cũng có học câu "Tổ tiên ta là người Gaulois(*) phải không?
(*) Nos ancêtres sont des Gaulois
Sơn cười, gật đầu:
- Đó là bài học đầu tiên!
Sơn đậu Bac I chương trình Pháp, bỏ ngang việc học khi cha bị tai nạn chết. Khi lên Bảo Lộc, Sơn cùng chúng tôi cố gắng học hàm thụ để có thể tiến thân thêm trong nghề nghiệp. Năm nào đầu niên khóa, Sơn cũng hăm hở mang một lô sách về đọc. Một thời gian ngắn sau khi đi đi, về về Sài Gòn -Đà Lạt, Sơn lại vất sách vào xó cho bụi bám. Năm 1966, Hảo Tâm đã xong cử nhân văn chương. Cuối năm, anh bị động viên vào Thủ Đức trước bọn tôi.
Sau cuộc nói chuyện về ca dao, tục ngữ, đêm nào Sơn cũng yêu cầu tôi đọc cho nghe vài bài. Lần nào Sơn cũng xuýt xoa khen hay. Từ đó Sơn mê ca dao, tục ngữ và sưu tầm tài liệu về đọc. Sau này có dịp, Sơn đưa chữ ca dao vào nhạc như bài "Ca Dao Mẹ" có câu "Bài ca dao bên cồn đá" chẳng hạn. Đến lượt tôi chịu thua. Không hiểu nổi- "Ca dao bên cồn đá" là ý nghĩa gì!

Sinh Tử Phù:

Sau vụ rao tìm trên Đài phát thanh Đà Lạt và bị quở trách tại Ty, Sơn trở nên cần mẫn hơn, khuôn phép hơn. Ít đi lại Sài Gòn, Đà Lạt hơn. Thỉnh thoảng có đi cũng về kịp sáng thứ hai để đi dạy. Trong thời gian này, Sơn nhận được rất nhiều thư từ. Phong nào cũng dày cộm. Sơn dạy buổi sáng, nên người nhận thư là tôi. Nhìn con dấu bưu điện, tôi biết được là thư gửi đi từ Huế. Đó là thư của bạn Sơn. Cái tên người gửi ở góc trái phong bì lần đầu tôi được nghe, được thấy, lạ lắm. Đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Từ lúc nhận được những thư đó, Sơn bỗng nhiên thay đổi hẳn tâm tính. Lúc nào cũng có vẻ bồn chồn, lo lắng. Ít đi lang thang những buổi chiều nữa. Có lúc ngồi thẩn thờ, mắt đăm chiêu nhìn qua cửa sổ hằng giờ, yên lặng với khói thuốc. Có khi điếu thuốc từ lúc châm đến lúc tàn, Sơn chỉ rít một hai hơi, rồi quên bẵng đi để nó cháy trên hai ngón tay đến lúc rụi đi. Chiếc gạt tàn chưa hết ngày đã đầy ứ lên, tràn ra cả bên ngoài. Sơn đi mua khóa về khóa chặt vali để cất kỹ những bức thư ấy. Có thư vừa đọc xong, Sơn đem đốt ngay. Không ngăn nổi tò mò, một hôm tôi hỏi Sơn:
- Dạo này tôi thấy ông không được vui. Có chuyện gì vậy?
Sơn lãng tránh:
- Đâu có gì! Chuyện nhà mà.
- Sao dạo này ông có quá nhiều thư của ông Phủ, ông Tường gì đó, mà mỗi lần nhận thư, đọc thư xong, tôi thấy ông có vẻ lo lắng thế?
- À! Bạn tôi đó. Ảnh báo cho tôi biết những chuyện không vui của gia đình tôi.
Thấy nói chuyện gia đình, tôi không tiện hỏi thêm.
Trước kia Sơn hay kể cho tôi nghe về gia đình anh, về hai đứa em. Em trai là Trịnh Quang Hà, em gái là Trịnh Vĩnh Thúy. Sơn mấy lần rũ tôi về Huế chơi để biết thú ngủ đò trên sông Hương, bánh bèo Âm phủ, cơm hến Vĩ Dạ... Tôi cũng muốn biết cố đô Huế một lần. Hẹn mãi. Nhưng lần nào về Nha Trang, mê sóng nước và thú săn bắn dưới biển tôi lại quên mất chuyện ngủ đò trên sông Hương. Đến nay tôi cũng chưa biết cầu Trường Tiền "sáu vài, mười hai nhịp" ra sao. Bây giờ, đọc báo thấy nói Sơn có bảy anh em. Cô ca sĩ Vĩnh Trinh là út. Nếu cứ tính sinh năm một, năm 1957 ba Sơn mất, thì Vĩnh Trinh phải năm mươi tuổi hoặc hơn.
Sau đó, Sơn lại thường xuyên đi Đà Lạt hơn. Nhưng không phải đến Đà Lạt. Sơn kể cho tôi nghe về một trang trại nào đó ở Phim Nôm, gần Đức Trọng, một quận của tỉnh Tuyên Đức. Sơn ở đó có khi hai, ba ngày với vài người bạn để bàn chuyện làm ăn. (Sơn không nói tên những người đó). Có lần Sơn rủ tôi làm ăn chung. Lương mỗi tháng mười ngàn. Tối trố mắt kinh ngạc:
- Công chuyện gì mà lương mỗi tháng mười ngàn? Họa là làm cho Việt Cộng ?
Sơn xua tay, gạt ngang:
- Nhảm! Ông không làm thì thôi. Nói bậy chết có ngày!
Tôi cười hì hì rồi quên đi. Một lần, Sơn về sau hai ngày bàn chuyện làm ăn, khoe với tôi mọi việc đều tốt đẹp và được đãi một chầu "Cà phê cứt chồn" nhớ đời. Sơn vui vẽ kể:
- Hồi giờ nghe nói cà phê chồn, mấy tiệm đều quảng cáo cà phê cứt chồn, giờ mới biết là láo hết. Làm gì có mà bán. Một đồn điền cà phê mênh mông, cho người đi nhặt cả tuần lễ, chưa chắc có được một ký. Chồn nó lựa những trái cà phê chín đỏ để ăn, rồi ỉa ra hột lẫn trong phân. Chủ đồn điền biệt phái một hay hai người đi lượm những hột đó, đem về phơi khô, rang, tẩm. Sau nhiều giai đoạn chế biến mới thành cà phê uống được. Không đủ biếu quan đầu tỉnh, đầu quận thì làm gì có mà bán ra thị trường.
Tôi vẫn thắc mắc:
- Cả một rừng cà phê bạt ngàn mà ông nói lượm không được một ký?
- Đúng vậy! Người ta không đợi cà phê chín mới hái. Nó sẽ rụng xuống đất hết. Trái vừa già có màu xanh đen là người ta đã hái rồi. Nói là hái chứ thật ra tuốt hay suốt. Trái cà phê mọc thành từng chùm dài như tiêu hay chùm ruột.
- Ông uống thấy mùi vị nó ra sao? Có bay mùi chồn không?
- Không! Nó có mùi thơm đặc biệt lắm. Cái mùi nó quyện trong hơi nóng bốc khói là là trên miệng chén, tỏa hương chầm chậm, thơm lâu lắm. Tôi nhâm nhi từng chút một để cho cái lưỡi và cái lổ mũi tôi thưởng thức hết cái ngon của nửa tách cà phê. Chỉ có nửa tách thôi, suốt một đêm hai con mắt tôi thao láo, không nhắm được. Đến bây giờ, (lúc Sơn về kể) tôi vẫn tỉnh táo mà không cảm thấy mệt.
Nghe nói, tôi đâm thèm và ao ước:
- Ông có xin họ một ít không? Đem ra pha thử cho tôi uống một chút?
- Ở đó mà ham! Tôi lên xuống cả tháng nay, giờ mới được đãi có nửa tách. Một tách còn chưa có thì làm gì họ cho một ít mang về. Vả lại, ai mở mồm xin, "ốt dột" chết!
Hè năm 1965, tôi mãi mê vui đùa với nắng gió, sóng nước ở bãi biển Nha trang nên quên lời hẹn với Sơn ra Huế để Sơn dẫn tôi đi thăm thú các nơi. Hết hè, tuy vẫn còn luyến tiếc những ngày vui trôi qua quá mau, tôi cũng phải trở về Bảo Lộc để kịp ngày khai giảng niên học mới.
Trở lại ngôi nhà trọ, tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy Sơn đã có mặt ở đây rồi. Căn phòng bừa bộn, bẩn thỉu. Toàn là tàn thuốc lá. Chổ nào cũng đầy tro tàn. Bao thuốc lá Bastos xanh trống không xếp đầy chung quanh tường, cao gần tới đầu gối. Sơn nằm dài trên đi văng. Mùng vẫn buông, ám khói vàng khè. Dưới gầm bàn giỏ rác đầy ứ. Giấy loại quay ronéo vàng xỉn, vo tròn, xé nát vất đầy mặt đất. Xác cà phê khô đóng mốc xanh, trắng vươn vãi chỗ này một nhúm, chỗ kia một tụm. Tôi la lên:
- Ông không về Huế nghỉ hè sao?
- Không! Tôi ở lại đây luôn. Cũng không về Sài Gòn. Sơn uể oải vừa chui ra khỏi mùng vừa nói.
- Còn lại một mình bà Phi có nấu cơm cho ông không? Tôi hỏi thêm.
- Không! Sơn lắc đầu. Tôi ăn cơm bữa ở Ngọc Sơn. Tám đồng một bữa. Siêng thì đi ăn, làm biếng thì ở nhà gặm bánh mì. Bà Phi về Sài Gòn cả tháng nay rồi. Cô người làm cũng về quê luôn. Tôi nhìn Sơn ái ngại. Sơn xanh hẳn. Mặt hốc hác. Tóc râu bờm xờm. Người đã ốm o sẵn, nay lại càng gầy thêm. Gầy rạc. Bộ đồ pijama trở nên rộng thùng thình, nhàu nát, đen xỉn. Có lẽ ba tháng nay không giặt. Nhưng đặc biệt nét mặt Sơn rất vui và rạng rỡ. Vừa xếp dọn lại chỗ nằm của mình, tôi vừa trò chuyện:
- Ông làm gì mà nằm ép rệp ở đây tới ba tháng lận! Không buồn à?
Sơn phấn khích chìa tập nhạc ra khoe với tôi:
- Công trình ba tháng đó!
Tôi cầm xấp bản thảo, liếc qua trang đầu có nhan đề "CA KHÚC DA VÀNG". Lật thêm mấy tờ bên dưới thấy những bản nhạc có tựa đề rất lạ như "Gia tài của Mẹ"- "Đàn bò vào thành phố"- "Người già và em bé"- "Người con gái Việt Nam da vàng"... với những lời ca lạ lẫm, khác hẳn với những lời trong tình ca đến 180 độ. Tôi ngờ vực có một cái gì đó đã thay đổi con người Sơn. Sơn đã lột xác. Tôi chăm chú nhìn Sơn để tìm xem cái gì khác trên khuôn mặt xương xương kia. Nhưng tôi không nhìn thấy gì cả. Chỉ trong đôi mắt, sau lần kính cận, ánh lên vẻ khác thường. Tôi chưa xác định được rõ ràng là cái gì. Có một cái gì đó mơ hồ lấp ló trong trí tôi rồi vụt biến mất. Cái mơ hồ đó tôi chưa kịp đặt tên cho nó, và cũng chưa nghĩ ra được một chữ thích hợp cho trạng thái đó trong lúc này. Thấy tôi im lặng lật hết tờ này qua tờ khác, Sơn hỏi:
- Ông thấy sao? Được chứ?
- Tôi mới đọc lời thôi! Chưa biết nhạc ra sao! Chưa có ý kiến được. Thôi bây giờ ta đi ăn cơm. Tối nay ông hát cho tôi nghe thử vài bài được không?
Sơn đồng ý. Chúng tôi ra Ngọc Sơn ăn cơm chiều. Cơm nước xong, chúng tôi lững thững đi ngược về hướng bờ hồ để lên Câu lạc bộ uống cà phê, ngắm lại cảnh sương chiều bốc dần lên từ chân cầu nhà Thủy Tạ hình bát giác sơn màu đỏ chói và cái cây chết khô giữa hồ. đứng một mình, cô độc.
Tối đó Sơn hát cho tôi nghe một vài bài tiêu biểu trong tập "Ca khúc da vàng". Đến những đoạn như "Gia tài của Mẹ: một bọn lai căng... một lũ bội tình" hay như "Đại bác đêm đêm dội về thành phố! Người phu quét đường dừng chỗi lắng nghe" hoặc như "Tôi có người yêu chết trận đêm qua, chết thật tình cờ..." tôi bỗng nổi da gà. Lời ca thật xúc động. Nó xoáy sâu vào tim người nghe rồi chuyền lên óc làm cho rúng động tâm can, tỏa lan dần cơ thể làm cho tứ chi bãi hoải. Sơn ngừng hát, đưa mắt hỏi tôi. Đột nhiên trong óc tôi lóe lên một tia chớp: tôi đã thấy rõ hình dáng của nó và tìm ra được cái tên của nó mà buổi chiều tôi chỉ cảm biết mà không nghỉ ra được. Tôi buột miệng la lên: Sinh tử phù.
Sơn ngạc nhiên trố mắt nhìn tôi, chặp lâu mới hỏi:
- Ông nói "sinh tử phù" là ý nghĩa gì?
Thời gian đó Sơn chỉ đọc sách Pháp. Hình như đang đọc "Cánh cửa hẹp" và "Buồn nôn". Tôi thì mê luyện chưởng Kim Dung. Tôi giảng giải sơ lược về môn pháp cấy sinh tử phù cho Sơn nghe. Sơn càng thắc mắc:
- Vậy thì cái chuyện cấy sinh tử phù của ông ăn nhập gì đến tôi?
Tôi chậm rãi, buồn rầu trả lời Sơn:
- Ông đã bị cái ông Hoàng Phủ Ngọc Tường nào đó cấy "sinh tử phù" vào người rồi. Ông còn nhớ có lần ông rủ tôi làm việc với nhóm của ông ở Phim Nôm, trả lương tháng mười ngàn không? Tôi nói đùa: họa may làm cho Việt Cộng, ông giãy nãy la oai oái. Và những lần ông đốt những xấp thư của ông Tường không? Bây giờ trong vòng ba tháng, ông đã sáng tác một đống nhạc, chẳng bù với hai bài "Chiều một mình qua phố" và "Lời buồn thánh" phải mất hơn sáu tháng? Bây giờ trong nhạc ông không còn những sợi nắng thủy tinh, những lá me bay, những tay gầy guộc nhỏ, những sõi đá biết nhớ biết đau mà toàn những xác chết, những bom đạn, mìn chông, bội phản... Những loại từ này không hợp với con người ông. Tôi e rằng ông đã bị tiêm nhiễm sinh tử phù Việt Cộng của ông Tường cấy vào người ông quá lậm rồi!
Sơn phản đối kịch liệt:
- Thôi đừng giỡn cha nội! Cha giỡn kiểu đó chết tôi nghe!
Từ đó, chúng tôi im lặng không ai nói với ai lời nào nữa cho đến lúc tắt đèn đi ngủ.
Dần dà trong bọn chúng tôi ai cũng biết Sơn vừa sáng tác một tập nhạc mới. Lại chia làm hai phe. Lúc đó đâu đã có từ "phản chiến" để chỉ loại nhạc này. Chúng tôi cứ ngâm nga mỗi bài vài câu. Phe thích thì cứ khoái... "Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày..." ca cẩm suốt ngày. Phe chê thì:
- Xí! nhạc Việt Cộng! Cha nội Sơn theo Việt Cộng rồi!
Tuy nhiên, sau đó lại quên lãng đi. Chúng tôi vẫn lại bù khú cà phê, bi da, xập xám, vui vẻ ồn ào như trước. Nhưng không ai để ý thấy rằng khi đám nhà binh như Vĩnh, Ngự, Tinh, Thành nhập bọn là Sơn tìm cách lãng tránh. Nhất là lúc có mặt hai chàng Thành, chi khu phó và Tinh, an ninh quân đội. Có lần trong bữa nhậu vui vẻ, không biết vô tình hay hữu ý, Trung úy Thành vừa cười vừa nói:
- Này mấy ông giáo! Tôi xin nói trước, bạn thì bạn, chơi thì chơi, nhưng ông nào theo Việt Cộng thì chúng tôi vẫn cứ bắt như thường đó!
Nói xong, anh ta cười hì hì, rồi giơ cao ly lên:
- Nào dô! Dô!
Lúc về, Sơn nói riêng với tôi:
- Chơi với mấy cha nhà binh, ghê thấy mẹ!
Thời gian sau, Sơn rất bận rộn. Đi đi, về về, Sài Gòn, Đà Lạt liên tục. Thường xuyên bỏ trường, lớp hơn trước. Nhưng thời gian đi không lâu. Có khi hai ngày. Có lúc ba ngày. Ông già Thống từ ngày được ông trưởng giáo hào phóng cho 100 điểm, há miệng mắc quai, không còn biết than thở với ai, đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Sơn cho tôi biết là đang chuẩn bị in tập "Ca khúc da vàng" và khoe với tôi là giới sinh viên thích lắm. Họ đang yêu cầu có những buổi hát ngoài trời gọi là "du ca". Và Sơn cũng hé cho tôi biết một vài sinh viên có nhiệt tâm đấu tranh như Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Văn Toại...sẵn sàng giúp Sơn thực hiện những buổi trình diễn ấy.
Những điều Sơn kể và những cái tên xa lạ không ăn nhập gì đến đời sống đang tươi đẹp của tôi nên nó từ tai này qua tai kia trôi tuột đi, chốc lát tôi quên hết. Khi Sơn đi vắng, tôi còn vô khối bạn bè để vui chơi. Nào Tín, nào Bạch, Đạo, Lãng, Tâm mập, Tâm lùn, Hinh, Sang, Hiện, Thao, Rầm, Nhượng... Tuần này xuống Tân Hà, đến nhà ông Hiệu trưởng Ngọc hạ cờ tây. Tuần sau kéo nhau vào ấp Lam Sơn. Hai bên đường vào ấp trồng toàn hoa anh đào, nên còn có tên gọi rất thơ mộng là Đào Hoa thôn. Chúng tôi vào đây để đến nhà ông Tề ngắm phong lan. Ông Tề tuy là nhà nông nhưng có tâm hồn nghệ sĩ. Trên gác Nghinh Phong của ông có đủ loại phong lan mà ông sưu tầm được. Trăm màu, trăm vẻ. Tuần khác lại cùng các cô giáo trẻ Nghiên, Châu, Hải, Trang...đi dạo suối Đại Bình, cách Bảo Lộc chừng vài cây số.
Cứ thế, ngoài việc dạy dỗ các em học sinh, tuổi trẻ của tôi đã trải qua những ngày tháng tươi vui, đáng sống trong cái quận lỵ bé nhỏ, mà mới ngày nào tôi gặp Sơn ở bến xe đò một buổi chiều cuối tuần đìu hiu có mưa rả rích. Buồn thúi ruột.
Tháng sáu năm 1966, Tâm nhập ngũ. Sơn chuyển qua phòng Tâm. Hai chúng tôi ở hai phòng riêng biệt. Trừ những lúc đi ăn cơm, uống cà phê, chơi bi da chung với nhau, Sơn ở lì trong phòng. Sơn không còn thú ngồi trước hiên nhà, chờ ngắm cô Ngà đi lễ mỗi buổi chiều với chiếc áo dài lụa màu mỡ gà sáng lóa trong ánh nắng xiên khoai sắp tắt. Bây giờ chỉ còn tiếng chuông nhà thờ quyện bước chân đi và gió chiều nhẹ đuổi theo, khẽ rung tà áo. Hai bên đường, đám lau trắng đã nở hết bông chỉ còn lại những thân xương khô quắt chỉa lên trời.
Giáng sinh năm đó tôi cưới vợ và thuê căn lầu của nhà may Tân Việt để ở. Sơn vẫn ở một mình trong căn nhà bà Phi. Mỗi buổi sáng đi dạy, đi ngang nhà chúng tôi, thỉnh thoảng Sơn tạt vào xin vợ tôi ly sữa dằn bụng. Nhất là những ngày cuối tháng. Bây giờ Sơn không còn tươi vui như xưa. Sơn mệt nhọc trong dáng đi và nhiều suy tư, âu lo hằn trên vầng trán.

Chia Tay:

Hè 1967. Chúng tôi đang mỗi người mỗi nơi nghỉ hè, bỗng đồng loạt nhận được điện khẩn của Ty, nhắn lên gấp để nhận lệnh nhập ngũ. Phía dưới bức điện chua thêm hàng chữ: "Nếu trình diện trễ hạn sẽ bị đưa ra trường Hạ Sĩ quan Đồng Đế". Thế là không hẹn mà chúng tôi gặp nhau một ngày tại Ty. Tay trái nhận lệnh tổng động viên, tay phải nhận phong bì lương, Ty ứng trước một tháng để ăn đi đường. Không thấy Sơn đâu. Hỏi anh Thành, phát ngân viên, anh cho biết:
- Sơn đã đến đây hôm qua nhận lệnh và lương đi rồi.
Tối hôm đó, chúng tôi gồm: Đạo, Hinh, Sang, Nghị, Bạch, Tâm lùn, Ngọc (Lãng sốt rét và Thao què được miễn dịch) tụ tại nhà Nghị uống một bữa thật say để chia tay. Ai cũng ví mình như Kinh Kha đang ở bờ sông Dịch, một đi không trở lại. Chỉ tiếc không có ai là Cao Tiệm Ly thổi đưa khúc sáo lên đường. Chúng tôi đang lúc ngà ngà, ôm nhau hát bài "Những ngày xưa thân ái" của Phạm thế Mỹ. Cứ lặp đi, lặp lại điệp khúc..."Chỉ còn tay súng nhỏ, giữa rừng sâu giết thù. Những ngày xưa thân ái xin gửi lại cho nhau..." Hát xong rồi cùng nhau khóc. Khóc như trẻ thơ. Khóc tự nhiên không một chút xấu hổ.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, chỉ còn lại vài mạng, say quá chưa tỉnh nổi. Còn bao nhiêu thì đã đi rồi. Tôi ra bến xe. Nhìn lại quang cảnh vẫn y như cũ. Không có gì thay đổi. Nhưng hôm nay sao thấy buồn quá đổi. Cái gì cũng có vẻ xa vắng, bơ thờ. Khi xe chạy ngang bờ hồ, tôi thì thầm:
- Giã từ Bảo Lộc mến yêu! Biết bao giờ mới gặp lại nhau!
Xe khuất dần, tôi cố ngoái đầu lại lần chót. Chỉ còn thấy ngọn cây khô chết giữa hồ. Nước mắt tôi lại ứa ra.

Cuộc Tái Ngộ Không Ngờ:

Năm một ngàn chín trăm bảy mươi, quân lực Việt Nam Cộng Hòa, với kế hoạch "Bình Định và Xây dựng nông thôn" lấy nông thôn bao vây rừng núi, Việt Cộng bị triệt đường tiếp tế. Cán binh đói, đành lui về thế thủ. Cuộc chiến lắng dịu. Bộ Giáo Dục cùng các bộ khác như Y tế, Công Chánh, Kinh Tế... đồng thanh kêu gào thiếu nhân viên và xin Bộ Quốc Phòng trả lại người cho mình. Phó Tổng thống Trần văn Hương phải can thiệp với chính phủ để trả lại nhân viên cho các Bộ. Nhưng bộ Quốc phòng chỉ đồng ý với điều kiện tạm thời "biệt phái". Hễ quân đội cần là "lôi" đầu trở lại cầm súng. (Vì hai chữ "biệt phái", sau tháng tư, bảy lăm chúng tôi bị đày đi lao cải mút mùa lệ thủy. Có lẽ trong từ điển của Hà Nội hai chữ "biệt phái" định nghĩa là làm mật vụ cho Mỹ chăng? Chúng tôi đều bị khép tội làm C.I.A.).
Sau sự can thiệp, chúng tôi lần lượt trở về nhiệm sở cũ với áo mũ, cân đai. Anh nào bây giờ cũng có trên cổ áo một bông mai vàng thắm. Đi đứng chững chạc kiểu nhà binh, trông oai ra phết. Chúng tôi không ngờ lại có ngày gặp được nhau đông đủ thế này. Từ khắp bốn vùng chiến thuật, hằng ngày đùa với tử thần và súng đạn, chúng tôi vẫn còn nguyên vẹn, không một ai sứt mẻ. Vậy mà năm xưa ra đi, ai cũng khẳng khái ngâm câu:
Túy ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Những cuộc vui lại nối tiếp. Đậm đà hơn xưa. Chỉ thiếu mỗi một Trịnh Công Sơn. Anh Thành cho biết:
- Mấy tuần sau ngày hạn trình diện, Nha Động viên có điện lên Ty hỏi mấy lần về Sơn. Ty có điện trả lời cho Nha là Sơn đã ký nhận lệnh nhập ngũ và chính thức rời nhiệm sở ngày...tháng...Như vậy Sơn đã thật sự trốn lính.
Ông Thống đã về hưu. Ngôi trường Bảo An trên đồi ngày xưa, giờ đây có một giáo viên Thượng tên K’Brí làm trưởng giáo.
Trong Ty Tiểu Học chỉ có một thay đổi nhỏ. Nhỏ mà lớn. Còn lại mọi việc vẫn như cũ. Ông Lợi vẫn Ty trưởng. Ông Lương vẫn thanh tra. Ông vẫn ngồi xếp hồ sơ ngay ngắn, từng tờ, từng tờ cho hết giờ hành chánh. Anh Thành vẫn cùng ông Đạt phát lương. Cô Lan, "người vợ không bao giờ cưới" của Nguyễn Văn Ba, buồn, chịu không nổi với những kỷ niệm tình đầu ngày nào cũng chạm mặt, nên đã xin thuyên chuyển về Sài Gòn.
Cái thay đổi nhỏ mà lớn là chuyện một giáo viên người Thượng, hiệu trưởng trường Cộng Đồng Thượng Bảo Lộc, bỗng chốc nhảy lên chức Phó Tỉnh Trưởng. Số là, để chiêu dụ người Thượng Tây nguyên chống lại bọn FULRO đang quấy phá miền cao nguyên, chính phủ lúc bấy giờ đặt thêm một bộ nữa chuyên trách về vấn đề này gọi là Bộ Sắc Tộc. Mỗi tỉnh thuộc vùng cao phải có thêm một ông Phó tỉnh người Sắc Tộc. Nhưng đào đâu ra người Thượng biết chút ít chữ nghĩa? Nếu không là một trong những giáo viên Thượng? Thế là anh giáo viên K"Breo nghiễm nhiên trở thành nhân vật quan trọng. Ngày xưa, mỗi lần đến Ty để lãnh lương hay tiếp nhận công văn, khúm na, khúm núm. Ông Lợi thì cứ réo:
- Này K"Breo! Vào đây bảo!
Bây giờ thì K"Breo lúc nào cũng áo vest, cà vạt, đi xe Jeep có tài xế lái. Bây giờ mỗi lần K"Breo đến Ty thì ông Lợi phải một điều: - Dạ vâng! Hai điều: - Dạ vâng! Thưa ông Phó phải ạ!
Khi K"Breo vừa ra khỏi cửa Ty, anh Thành rít một hơi dài thuốc lào, móp sâu hai má, ngữa mặt nhả khói lên trần nhà xong, buông một câu gọn lõn:
- Đéo mẹ đời!
Ông Lợi ngồi trong văn phòng cười nhếch mép, tay gõ gõ ống vố vào gạt tàn.

Trịnh Công Sơn và Tình Bè Bạn....

Sau một tuần, anh em lục tục lên đủ mặt.
Bữa tiệc tẩy trần thật tưng bừng. Chúng tôi thầu hết tầng lầu trên của Câu Lạc bộ. Bây giờ thì ăn nói thoải mái, không còn phải e dè mấy tên du đãng tép riu. Sau vài ly máy nóng, chúng tôi tha hồ kể "chuyện nhà binh". Chuyện khói lửa bốn vùng chiến thuật nguội dần. Có anh sực nhớ tới Trịnh công Sơn, hỏi trống không:
- Có ai biết anh chàng Sơn nhà mình bây giờ ở đâu, làm gì không hè?
Hiện đáp:
- Tôi biết. Sơn bây giờ nổi tiếng lắm. Không những trong nước mà cả thế giới cũng biết.
Bạch không tin:
- Thôi cha! Xạo vừa vừa thôi! Thằng chả trốn lính, làm ăn gì được mà nổi tiếng!
Hiện vẫn bằng cái giọng rề rà bỡn cợt, nửa đùa nửa thật:
- Tôi làm việc ở cơ quan ninh quân đội, địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn, nên biết một ít về ông Sơn nhà mình. Đầu tiên ông ta được một tay có cở trong không quân che chở, cấp cho một cái thẻ "Chứng chỉ tại ngũ" chức vụ binh nhì lèo.
Có tiếng lao nhao:
- Ai vậy? Ai vậy? Ông biết không?
- Sao lại không! Đại Tá Lưu Kim Cương chớ ai vào đây nữa! Cảnh sát biết thừa đi chứ. Nhưng không dám đụng vào ổ kiến lửa.
Hiện cười cười, tợp thêm một ngụm bia rồi tiếp:
- Sau tay này tịch. Cụ Sơn nhà mình bèn làm một bản nhạc để tạ ơn người che chở mình. Bản nhạc có tên là "Cho một người nằm xuống".
Tín nhảy vô vòng chiến:
- Ông rề rà bỏ mẹ! Thế thì tôi hỏi ông nhé! Bao nhiêu năm ông già Thống còng lưng dạy thế cho ông ấy, để ông ấy lo việc công danh của mình, ông ấy có làm bản nhạc nào tên là "Cho một người dạy thế" để tạ ơn ông Thống không?
Hiện vẫn đũng đỉnh:
- Ấy! Cái này thì tôi không biết. Nhưng ông Thống chưa tịch thì làm gì có nhạc để tặng? Còn ông Sơn sẽ làm hay không thì có dịp gặp mặt tôi sẽ hỏi lại rồi cho ông biết sau.
Tín thở hắt ra:
- Nói như ông chán bỏ mẹ!
Đạo sốt ruột:
- Sau khi Lưu Kim Cương chết rồi thì ai là cái ô dù của ông Sơn?
- Cái ô dù hãy còn bé lắm. Phải nói là cây đa cổ thụ mới đúng.
Nói tới đây, Hiện dừng lại, thong thả rót bia vào ly mình một cách chậm rãi để bọt khỏi tràn miệng ly rồi nâng ly lên làm mấy tợp, mặc cho bao nhiêu con mắt đang hau háu chờ đợi.
Nghị nóng nảy văng tục:
- Mẹ! Cứ vờ vịt! Ông đấm buồi vào!
Hiện khà một tiếng sảng khoái, đưa tay chùi mép rồi mới tiếp:
- Cây đa cổ thụ là tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương đấy.
- À ra thế đấy! Nhiều tiếng xì xào.
Lãng từ đầu đến giờ vẫn ngồi im lặng nhâm nhi ly bia lắng nghe anh em kể chuyện "đường xa xứ lạ" thích lắm vì không được cái "hân hạnh", "Tòng quân giết giặc" để "Dong vó ngựa trên đường chinh chiến", bây giờ mới lên tiếng:
- Moa...moa thì "mo phú" tay nào che chở cho ông Sơn. Việc bắt ông Sơn là việc của mấy ông "cớm". Moa... moa thì moa bực cái ông Sơn nhà mình. Bực lắm cơ. Moa có mua mấy tập nhạc của ông ấy khi mới xuất bản. Tập nào cũng ghi tiểu sử có đủ thứ trên đời mà không thấy tập nào ghi lấy một dòng như "dạy học tại Bảo Lộc từ năm 1964 đến 1967" họặc "Học Sư phạm Qui Nhơn" chẳng hạn.
Moa bực là nghĩ: Chẳng lẽ ông ta có mặc cảm xấu hổ với nghề dạy học chăng?
Võ Đôn Thao cười hề hề, rút cây Paker trong túi áo ra, lấy một tờ giấy lau tay, tính toán một lúc rồi nói:
- Nè! Mấy ông nín hết đi. Nghe tôi công bố một con số kinh khủng về ông Sơn.
Mọi người nghe Thao nói, lấy làm tò mò. Tất cả đều im lặng chờ. Thao hắng giọng:
- Này nhé! Cứ lấy đổ đồng lương ổng là 5.200 đồng một tháng, nhân lên ba năm. Tức là ba mươi sáu tháng. Vị chi là 187.200 đồng. Gạo ba đồng một ký. Ổng đã ăn hết 62.400 ký lô gạo Quốc Gia trong ba năm. Ghê chưa!
Nghị cà khịa:
- Ăn gạo được rồi! Bày đặt văn vẻ thêm hai chữ Quốc Gia sau đuôi! Khéo vẽ!
Thao phản đối:
- Tôi chưa nói hết ý, sao ông lại kê tủ đứng trong họng tôi?
Nghị cười há há:
- Chứ không phải sao?
- Phải làm sao được! Thao cương quyết.
Lãng chen vô can:
- Thì... thì để ông Thao nói hết đã, hẳn hay.
- Ừ, thì nói hết đi xem nào! Nghị đấu dịu.
Bây giờ Thao mới tủm tỉm cười:
- Sỡ dĩ tôi phải nói ăn cơm Quốc Gia là vì ông ấy thờ ma Cộng Sản. Ổng lãnh lương Quốc Gia, dùng thì giờ dạy học để làm nhạc có lợi cho Việt Cộng.
Lãng có vẽ không tán thành quan điểm đó:
- Cái đó thì chưa có gì rõ rệt để kết luận ông Sơn theo Cộng Sản. Nhưng tôi cứ bực ông Sơn. Bao nhiêu năm nhờ ông Lợi khoan dung mà không một lời ơn nghĩa.
Thao vẫn thẳng thừng khẳng định:- Mấy ông sống ở Sài Gòn làm gì biết Cộng Sản ra sao mà nói! Gia đình tôi nè! Nhiều đời sống ở Phú Yên. Cái đất Phú Yên là cái ổ của Việt Cộng. Các ông đã từng nghe bốn chữ Nam, Ngãi, Bình, Phú chưa? Đó là bốn cái "nôi" của "cách mạng" tức bốn cái ổ của Việt Cộng đó.Đạo thơ ngây hỏi lại:- Ông nói bốn chữ Nam, Ngãi, Bình, Phú nó là nghĩa gì vậy?
Thao cười ngất:
- Ông là giáo viên mà không biết bốn chữ đó làm sao dạy địa lý, sử ký cho học trò?Đạo đỏ mặt ngồi im. Được thể, Thao hăng lên:
- Đó là bốn tỉnh miền trung gồm Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên. Dân ở đó, phải nói là nhà nào cũng có chồng hoặc con đi tập kết tức là theo Cộng Sản. Trừ một ít ở thành phố mới không. Nên dân tụi tôi rành sáu câu. Anh nào mở miệng ra có mùi Cộng Sản là biết liền.
Tâm mập bây giờ mới lên tiếng:
- Tôi dạy ở trường Chiến tranh Chính trị Đà Lạt cũng có lúc đem vấn đề này ra tranh cãi, chưa ngã ngũ đâu vào đâu. Nhưng các đài phát thanh cứ phát nhạc của họ Trịnh, nhất là đài quân đội mới chết chứ.
Thấy không khí càng lúc càng căng, Bạch chuyển đề tài:
- Thôi! Dẹp ba cái vụ cộng, trừ đó đi. Dô một cái "chăm phần chăm" đi. Nào dô!
Mọi người đồng loạt giơ cao ly: Dô! Dô!
Tiếng cười nói lại xôn xao, náo nhiệt. Sực nhớ ra điều gì, Tín vùng nói lớn giữa tiếng ồn ào:
- Này các cụ! Còn em bé Đỗ thị Nghiên "cúng" cây đàn ghi ta cho ông Sơn ba năm có được xơ múi gì không?
Đạo là người rời Bảo Lộc sau cùng nên biết chuyện này, đáp ngay:
- Em Nghiên trước khi theo chồng về Huế có đến đòi lại cây đàn. Cũng còn may! Nếu không thì ông Sơn cũng đã quên.
Tín quay sang tôi móc lò:
- Còn ông mãnh này! Ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu ba năm trời có được xơ múi gì không?
Tôi thật thà trả lời:
- Có! Hồi đầu tiên Sơn có tặng cho tôi và ông Lợi, mỗi người một bản "Chiều Một Mình Qua Phố".
Tín vặn:
- Bấy nhiêu thôi à! Thế mấy tập Tình ca-Ca khúc da vàng không tặng sao?
- Sơn nói nhà xuất bản cho ít quá nên không đủ tặng.
Hiện tiếp lời:
- Mấy ông đừng trách! Ông Sơn bây giờ bạn đông lắm, đếm không hết. Ông ấy bây giờ đi đâu cũng có một đám bu quanh như nhặng xanh bu c. ngựa vậy.
Anh chàng Sang ngồi im từ đầu đến cuối, bây giờ như cóc mở miệng :
- Mấy cha cứ nói chuyện trên trời, dưới đất. Hồi còn ở đây, ông Sơn đã dự đoán sau hai mươi năm nội chiến, những người còn lại đều là một "lũ bội tình". Thì ông ấy có chút bạc ơn với nghề dạy học và chút bạc nghĩa với những người bạn ở cái xứ Thượng heo hút này cũng là chuyện nhỏ trong cuộc đời vĩ đại của ông ấy mà thôi. Có đáng gì đâu mà nhắc tới !
Câu chuyện nhạt dần, không khí cũng lắng dần. Có lẽ mọi người đã ngấm say. Lần đầu tiên trở lại Bảo Lộc, sau ba năm, tôi thấy anh Lãng không còn đòi về trước để trùm mền và xoa dầu Nhị Thiên đường như xưa. Có lẽ anh đã từ chức "ông Trùm" rồi chăng? Mừng cho anh.

Lại Chia Tay:

Cuối niên khóa 1970, chúng tôi đồng loạt nộp đơn lên Bộ Giáo Dục xin thuyên chuyển về nguyên quán. Trừ những anh phải lòng với ngươì đẹp xứ sương mù thì ở lại làm rễ như Nguyễn Văn Chất cưới cô học trò năm xưa của mình, hoa khôi Di Linh. Lâm Văn Rầm làm rễ hiệu trà Bạch Tượng, đối thủ của trà Đổ Hữu, nối nghiệp ướp, sấy, chế biến trà lài, trà sói...
Đầu niên học 1971, chúng tôi đều nhận được lệnh thuyên chuyển theo đơn xin. Đó là nỗi vui mừng chung cho chúng tôi, nhưng cũng là nỗi buồn riêng cho ông Ty Trưởng Lợi và bác Trạch, Hiệu trưởng trường Nam Bảo Lộc. Hai ông buồn vì mất một lúc cả đám chúng tôi. Một đám trẻ năng động, vui nhộn mà hai ông đã có một thời gian dài gắn bó như anh em, cha con trong một gia đình. Hai ông sẽ không còn thời gian nữa để làm "một cuộc tình mới". Tóc hai ông đã bạc nhiều lắm rồi.
Ngày chia tay, cũng lại một bữa linh đình. Lần này không phải hát "Những ngày xưa thân ái" mà là những cái xiết tay rất chặt, rất lâu.
Những ánh mắt long lanh, những nụ cười rạng rỡ, những lời hứa hẹn thắm thiết sẽ gặp lại nhau tại Sài Gòn, Nha Trang, Long An và tận Phú Yên xa tít mù của Võ Đôn Thao.

Ruộng Dâu Hóa Thành Biển Xanh, Tháng Tư, Bảy Lăm....

Những lời hứa hẹn đinh ninh trong lòng chúng tôi tưởng chừng thực hiện không có gì khó khăn. Một vé xe đò, một vé máy bay hay cà rịch, cà tang một chuyến xe lửa là chúng tôi có thể gặp nhau, tha hồ mà bù khú ít ngày. Ấy vậy mà lời hẹn ước đó đã không bao giờ có cơ hội thực hiện được.
Tháng tư năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, thống nhất hai miền Nam Bắc. Hòa bình đã lập lại sau hơn ba mươi năm trả giá bằng núi xương, sông máu. Hòa bình đã trở về với dân tộc Việt Nam.
Dân chúng Miền Nam cùng nhau đổ ra đường vẫy cờ, reo mừng đón chào đoàn quân chiến thắng đang dương oai, diệu võ trên đường. Họ hát vang những bài ca "Giải phóng Miền Nam" và nhất là bài "Nối vòng tay lớn" của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bài hát mà anh đã đem hết tâm huyết viết nên để chờ cái ngày vinh quang hôm nay. Và cũng là cái ngày anh hồ hởi, phấn khởi được hát vang lồng ngực, rộng mở hết các mạch máu con tim để ca ngợi thành quả cách mạng trên các đài phát thanh Sài Gòn-Huế, khi "Tổng thống ba ngày" Dương văn Minh tuyên bố buông súng đầu hàng. Anh đã toại nguyện.
Lời nhạc trong bài Nối Vòng Tay Lớn được nhà cầm quyền Hà Nội minh họa bằng một bức tranh hòa bình trong đó vẽ con chim bồ câu trắng, mỏ ngậm cành nguyệt quế, dang thẳng đôi cánh bay lượn tự do giữa trời xanh, mắt liếc nhìn xuống một đám người, gần một triệu quân, cán, chính đang "Nối vòng tay lớn, tay nọ nối tay kia bằng một sợi dây dù cột chặt, đi vào trại Cải Tạo. Trong đó có tôi.
Để trở nên một công dân hữu ích cho xã hội mới, một xã hội văn minh, tiến bộ, người không bóc lột người, một xã hội bình đẳng, không có giàu nghèo, ai ai cũng được lao động như nhau, vì lao động là vinh quang, tôi đã được đảng Cộng Sản giáo dục gần năm năm rưỡi, gột rửa sạch mọi tư tưởng ăn bám xã hội trong tôi bấy lâu nay. Tháng sáu năm một ngàn chín trăm tám mươi mốt (6/1981), tôi tốt nghiệp ra trường với một chứng chỉ chứng nhận, in ronéo ba chữ to tướng: GIẤY RA TRẠI phía dưới có chữ ký và khuôn dấu Bộ Công An nhà nước Xã hội Chủ Nghĩa hẳn hoi.
Nhờ thời gian trong trại, tôi đã thắm nhuần lý thuyết chủ nghĩa Cộng Sản và thông thạo lao động thực tiễn, tôi đã trở thành con người mới. Tôi thực sự trở thành con người mới. Tôi đã học được rất nhiều điều từ một nền văn hóa, văn minh của Xã hội Chủ Nghĩa mà trước đây chế độ Giáo Dục miền Nam rập khuôn theo đế quốc không dạy cho tôi. Nền giáo dục đồi trụy ấy chỉ dạy cho tôi trở thành một thầy giáo cả đời chỉ biết cầm phấn. Hôm nay tôi hãnh diện mà khoe rằng, tôi đã biết chăn trâu, chăn bò, chăn heo (từ cơ bản này tôi có thể trở thành nhà lãnh đạo đất nước trong tương lai). Biết thế nào là cuốc lật những đám đất cằn cỗi bỏ hoang hơn ba mươi năm. Biết giá trị những củ lang, củ mì. Bài học giá trị này đích than Trung tá Hạnh, Trưởng trại A 30, truyền dạy cho tôi với khẩu quyết:
Làm ăn no đủ, nhờ củ với khoai,
Làm ăn lai rai nhờ khoai với củ.
Cái ích lợi còn nhiều lắm, kể ra không xuể. Nền văn hóa văn minh của Xã hội Chủ nghĩa thật tuyệt vời. Tiếc cho những ai bỏ chạy quá sớm ra nước ngoài, không được hưởng ơn mưa móc của đảng Cộng Sản và Nhà nước và nhất là không hưởng được chút sái của nền văn hóa đó. Tiếc thay!
Về nhà, với chứng chỉ tốt nghiệp trên tay, tôi được Hợp tác xã Xây dựng thu dụng ngay với chức năng đạp xe ba gác chở xà bần đi đổ. Tôi không bị bóc lột như trước kia làm thầy giáo. Tôi được trả lương xứng đáng với công việc: sáu đồng một ngày. Mỗi tuần được hưởng một ngày nghỉ ngơi, không lương. Tôi vô cùng sung sướng. Trên đường về tôi hân hoan trong lòng: Từ nay ta thực sự đã thành một công dân trong một xã hội hết sức tốt đẹp mà ít nước nào trên thế giới có được. Đó là "NƯỚC CÔNG HÒA XÃ HÔI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM". Và tôi cũng tính nhẩm một cách "lô-gic" trong đầu cách chi tiêu với số lương ấy: Sáu đồng = Ly cà phê đen quốc doanh 2$ + Gói thuốc lá đen Hoa Mai 4$. Cơm ngày hai bữa có má lo. Từ đó tôi an tâm hăng say, miệt mài lao động cho đến ngày được phép rời đất nước thân yêu, để lên đường đi định cư ở nước thứ ba.

Giã Từ :

Tháng 11 năm 1991, tôi đem hết gia đình vào Sài Gòn để chờ máy bay. Thời gian này, tôi gặp lại Lãng, Hinh, Tâm lùn và Sang. Lãng vẫn tiếp tục dạy học vì anh không có "nợ máu; với nhân dân. Anh được chuyển sang dạy cấp hai. Nay anh đã có vợ và hai con. Tâm cùng vợ bán sữa đậu nành sống lây lất qua ngày. Tối hì hục xay đậu. Sáng hì hục đẩy xe ba gác ra chợ Bà Chiểu bán. Sang cũng tốt nghiệp từ một trại Cải Tạo miền Nam, về vớ được một bà lỡ thì, bán chuối ở chợ Ông Tạ. Ngày ngày phụ với vợ vác những quầy chuối bán từ đầu chợ đến cuối chợ. Hinh cũng đã có vợ và một con. Phụ một chân sai vặt cho "ông bà bô" bán hàng trong một quán cóc ở Gò Vấp, kiếm cơm ngày hai bữa.

Bạn bè một thuở nay vừa gặp lại

Trong một bữa nhậu chia tay cuối cùng gần cổng xe lửa số 6 (bò bảy món Ánh Hồng xưa) thăm hỏi những bạn bè cũ còn lại được những ai, thì được biết Đỗ Danh Đạo vượt biên, nay đang ở Tây Đức. Còn bao nhiêu thất tán trong trận cuồng phong thổi vào Sài Gòn tháng tư, bảy lăm. Bấy lâu không gặp lại một ai. Bữa ăn thật buồn. Tâm lùn cố pha trò nhưng vẫn không đánh tan nỗi u sầu nặng trĩu trong lòng mọi người.
Lãng vẫn còn nói lắp:
- Thế... thế, trước khi rời khỏi Việt Nam, ông có định đến thăm Trịnh Công Sơn lần chót không?Mọi người lúc ấy mới chợt nhớ ra là mình còn một người bạn tên là Trịnh công Sơn. Tôi hơi e ngại chuyện đến thăm. Sợ bị hiểu lầm dựa hơi, nhờ cậy. Tôi kể lại chuyện gặp hai ông Trịnh ở Nha Trang năm 1970, Sơn không thấy tôi hay không nhận tôi. Sang chép miệng:
- Đọc báo thấy nói ổng quen toàn những văn nghệ sĩ từ cái thời Nhân văn Giai phẩm ngoài Bắc như Văn Cao, Phùng Quán, Hoàng Cầm... không hà!
Sang lại chửi đổng:
- Mẹ! Thấy sang bắt quàng làm họ!
Hinh tiếp lời:
- Tôi có lần đến cà phê của anh ta. Chung quanh anh ta lúc nào cũng có một đống bu quanh.
Tâm hỏi:
- Thế anh ta có nhìn thấy ông không?
Hinh tặc lưỡi:
- Anh ta lúc nào cũng bận tíu tít với cái đám bung xung thì làm gì có thì giờ nhìn thấy tôi!
Tâm phấn khích quay sang tôi:
- Ngày mốt ông lên máy bay hả? Được rồi, trưa mai 12giờ, dẹp hàng xong, tôi chở ông lên chỗ ông Sơn ở, ông vào xem thử ra sao! Bây giờ Nhà nước cấp cho ông ta một cái vi-la to lắm không biết của ai chạy bỏ lại. Mẹ! Không biết làm đến chức gì mà ngon thế? Tâm lại chửi đời. Các bạn xúm nhau mỗi người một câu, xúi tôi đi thử:
- Ông cứ đi thử cho biết tình đời! Chết thằng tây đen nào mà sợ!
Trưa hôm sau, Tâm chạy chiếc xe Honda cà tàng, xành xạch chở tôi đến vi-la của Sơn đang ở. Tâm dừng xe bên kia đường chói chang nắng gắt giữa trưa, bảo tôi qua bấm chuông. Căn biệt thự có tường vây cao quá đầu bao bọc. Dọc bên trong có trồng trúc kiểng cao quá tường. Tôi bấm chuông. Cánh cửa sắt hé mở. Dưới tàn một khóm trúc ngay cổng, hai thanh niên vạm vỡ đang ngồi nhâm nhi. Chai Whisky vơi quá nửa.
Một người hỏi tôi:
- Ông hỏi ai? Có việc gì?
- Tôi là bạn của ông Sơn lâu lắm rồi. Đến thăm thôi, không có việc gì cả!
- A! Anh Sơn đang nghỉ trên lầu! Ông đứng đây chờ một chút. Tôi lên thông báo rồi cho ông hay.
Anh ta bỏ ly rượu xuống bàn, bước vào nhà. Độ hai phút trở ra nói:
- Anh Sơn đang mệt cần nghỉ ngơi, sáng giờ uống hơi nhiều. Nếu ông cần gì, xin viết giấy để lại, chúng tôi sẽ trình với anh Sơn.
Nói xong anh ta xé trong tập sổ tay một tờ giấy con đưa cho tôi và cây viết Bic. Tôi lưỡng lự không biết phải viết cái gì. Nhìn qua bên kia đường thấy Tâm đang đưa tay quẹt mồ hôi trán, lòng tôi bất nhẫn. Tôi lia ngay một hàng không nghĩ ngợi: "Anh Sơn! Từ năm 1967 đến nay mới có dịp vào Sài Gòn. Ngày mai tôi sẽ lên máy bay đi Hoa Kỳ, nên ghé thăm anh tí chút, nhưng không được gặp. Thôi, xin hẹn lại kiếp sau". Đưa trả lại tờ giấy cho người bảo vệ, tôi quay lưng đi thẳng.
Trên đường về, Tâm hỏi:
- Sao? Không có Sơn à?
- Có! Nhưng tên bảo vệ nói là Sơn sáng nay uống rượu hơi nhiều nên mệt, cần nghỉ ngơi. Hắn bảo tôi cần gì thì viết giấy để lại.
- Ông có viết không?
- Ban đầu tôi định không viết. Nhưng nhìn thấy ông đứng ngoài nắng nhễ nhại mồ hôi, tôi đâm bực, viết đại một câu cho bỏ ghét. Bây giờ nghĩ lại thấy cải lương quá!
- Câu gì mà cải lương?
- Xin hẹn lại kiếp sau!
Tâm cười ha hả:
- Thì đúng boong! Ông qua Mỹ rồi, làm gì có ngày về lại Việt Nam để gặp lại nhau? Không là kiếp sau à!
Tâm lại hỏi:
- Ông có nghĩ rằng họ sẽ đưa tờ giấy đó cho ông Sơn không?
- Không! Tôi nghĩ là không! Lúc tôi viết mấy chữ đó, liếc mắt thấy nó nhếch mép cười. Tôi chắc rằng khi quay lưng đi, chúng nó sẽ vất vào giỏ rác ngay. Vả lại, với chức quyền như Sơn hiện giờ thì ngày nào lại chẳng có khối thằng đến xưng là bạn để cầu cạnh, lợi dụng. Họ bận tâm làm gì!
Tâm vẫn ức:
- Ông Sơn làm nhạc thì ăn cái dải gì mà cầu cạnh?
Tôi phì cười vì cái ý nghĩ đơn giản của Tâm:
- Bán sữa đậu nành như ông, bán chuối lề đường như ông Sang thì không cần. Nhưng ông viết văn, làm nhạc thì phải khom lưng cười cầu tài đó!
- Sao ông biết?
- Tôi không biết ông Sơn đang nắm giữ chức vụ gì, nhưng cứ suy đoán thì thấy ngay. Này nhé! Cứ đem so sánh với những tay một đời theo đảng, mấy ai đã được ân sũng như thế? Vi-la này! Những hai bảo vệ này! Còn vô khối bổng lộc ngõ trước, ngõ sau thì đủ biết Sơn đang giữ chức vụ lớn và quan trọng lắm.
- Mới tới đây có mấy phút mà nghe ông nói như thánh nói!
- Cần gì phải thánh mới biết! Cứ nhìn đầy tớ gác cổng mà uống whisky thì biết ngay đời sống của thầy!
Sáng hôm sau, một ngày cuối tháng 11 năm 1991, tôi bước chân lên máy bay, gạt nước mắt giã từ quê hương yêu dấu để đến một đất nước xa lạ, nhưng có tự do. Ở đó con người mới có cuộc sống thực sự của con người.

Mấy Lời Kết:


Trịnh Công Sơn giờ đã xuôi tay, giã từ cuộc đời, sau hơn bốn mươi năm ngụp lặn trong danh lợi như tất cả những ai sống trên cõi đời này. Chết là hết. Ngẫm câu "Thế sự du du nại lão hà" mà ngao ngán.
Cũng may, trong thời gian tôi bị cải tạo, gia đình tôi còn cất dấu được tập hồ sơ công vụ của tôi và một ít hình ảnh kỷ niệm ở Bảo Lộc, tôi mới ghi lại được những tài liệu chính xác về ngày, tháng, năm về một quãng đời có dính dáng đến Trịnh công Sơn dạy học ở đây. Nếu không thì chắc chắn, khi mới đọc qua tiêu đề "Về một quãng đời...." sẽ có người kêu lên ngay rằng- "Lại thêm một thằng nữa nhảy ra xưng là bạn của Trịnh Công Sơn. Cái loại này bây giờ ở đâu lòi ra nhiều quá. Xúc đổ đi không hết! Đời chó thật!".
Nay, nhân đọc mấy bài báo nói về họ Trịnh, gọi là tưởng niệm, thấy hai phe khen và chê có những điểm không đúng về con người đời thường của Trịnh Công Sơn và cũng do sự thúc đẩy của bạn bè, lần đầu tiên tôi tập cầm bút viết lên những lời thô thiển, nhớ sao viết vậy, không văn vẻ. Mong được lượng thứ.
Nhìn lại những tấm hình chụp bốn chúng tôi khi ở chung với nhau trong ngôi nhà của bà Trần Thị Phi năm 1964, tôi không khỏi ngậm ngùi. Nguyễn Văn Ba, Trịnh Công Sơn đã về với cát bụi. Nguyễn Hảo Tâm không biết giờ này đã từ Ấn Độ về chưa? Còn tôi, làm thân lưu lạc xứ người, không biết bao giờ mới trở lại quê hương.
Nhìn nét mặt bốn người thuở hai bốn, hai sáu, trẻ trung, hồn nhiên, vô tư thật dễ thương. Cái miệng Sơn cười rộng thoải mái, cái vầng trán cao, đôi mắt hiền lúc nào cũng mơ màng, tạo nên khuôn mặt có nét dễ thương, ưa nhìn. Có lần tôi đã nhận xét, Sơn hiền lành đến độ nhu nhược, nếu không nói là hèn. Cái hiền đó bị người ta lợi dụng. Cái "thiên tài" của Sơn như con dao sắc, tự nó không làm hại ai. Ai lợi dụng được Sơn thì xử dụng được con dao đó.
Khi ở Bảo Lộc, Sơn đã bị Hoàng Phủ Ngọc Tường lợi dụng Sơn vào mưu đồ chính trị của mình để lập công với Cộng Sản tàn sát dân Huế Tết Mậu Thân mà Sơn không hay biết cứ tưởng đó là lòng yêu nước. Sau về Sài Gòn, trong thời gian trốn lính, Sơn bị hai người bạn "chí cốt" là Trịnh Cung và Đinh Cường lợi dụng sự nổi tiếng của Sơn để ké chút hào quang. Chắc chắn hơn ai hết, hai ông Cung và Cường đều biết Sơn đang đi vào con đường nào mà vẫn cứ bao che, biện hộ để hưởng sái. Sái của cái danh hão!
Sau 75, Sơn càng bị nhà cầm quyền khai thác triệt để, như một trái chanh, "thiên tài" của anh để phục vụ cho mưu lược chính trị. Có lúc Sơn phải than thở riêng với vài bạn thân về hai chữ nên hay không "thỏa hiệp". Cuối cùng không dám có dũng khí bứt ra khỏi vòng "kim cô" danh lợi.
Từ đó Sơn lún mãi vào "một cõi thiên đàng" hay "một cõi đi về?" để hưởng thụ những xa hoa đã một đời mơ ước. Người trần mắt thịt mà! Đừng bắt Sơn phải làm thần thánh! Và Sơn đã toại nguyện cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay.
Tôi và các bạn tôi, một thời ở Bảo Lộc, đối với Sơn, chỉ là bạn đồng nghiệp trong một thời gian ngắn ba năm, nên là những kẻ vô danh. Nhưng trong lòng chúng tôi luôn luôn vẫn dành cho anh một khoảng lớn chứa hình ảnh và những tiếng hát của anh về những bản tình ca. Chúng tôi yêu mến anh và bây giờ tình cảm đó vẫn còn nguyên vẹn.
Tôi tha thiết kêu gọi những ai đã từng lợi dụng Sơn, xin hãy ngừng lại đi thôi. Hãy để Sơn yên nghỉ. Bởi vì Sơn không có ai là bạn cả. Sơn đã có lần tự thán "rồi một hôm chợt thấy hoang vu quanh mình".
Nhớ lại ngày Sơn đưa tôi tập bản thảo "Ca khúc da vàng" cho tôi xem. Tôi đã nói: - Loại nhạc này nó không hợp với con người của ông... Hôm nay tôi cũng sẽ nói:

- Ông Sơn à! Hơn sáu mươi năm qua, với nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, người ta vẫn thích và vẫn hát "Dư âm" chớ người ta không hát "Người đi xây hồ Kẻ Gỗ" hoặc "Em đi làm Tín dụng". Trường hợp ông cũng vậy. Ít nhất là có tôi. Đến nay đã bốn mươi năm qua, tuổi đời hơn sáu chục, có những buổi chiều mưa rả rích trên đất khách, quê người, tôi bỗng chợt lẩm nhẩm mấy câu "Chiều này còn mưa sao em không lại! Nhỡ mai trong cơn đau vùi làm sao có nhau. Hằn lên nỗi đau! Bước chân xin em về mau!..." với một nỗi xúc động nghẹn ngào. Chứ tôi không thể hát những lời trong "Em ra nông trường, Anh ra tiền tuyến". Cái loại nhạc đẻ non bằng thuốc kích dục để đáp ứng nhu cầu chính trị giai đoạn mà ông đã đẻ ra hằng loạt để trả nợ áo cơm nó sẽ chết yểu. Ông còn nhớ bài "Vui xây Ấp Chiến lược", ông sáng tác cấp tốc lúc học Sư phạm để chúng tôi đi dạy thực tập không? Chúng tôi đã chê. Và ông đã để nó chết ngay vừa mới lọt lòng.

- Ông Sơn! Bây giờ ông đã về nơi ông muốn. Bây giờ người ta tha hồ tô son, vẽ phấn cuộc đời ông. Huyền thoại hóa cuộc đời ông. Mục đích để làm gì? Để vinh danh ông chăng? Ca tụng ông chăng? Một phần nào đó thôi.

Thực chất vẫn là lợi dụng ông, lại là cái chết của ông để quay phim, in nhạc, viết sách, làm thơ, làm băng về ông để... bán. Và hội thảo, hội thoại, tưởng niệm, đúc tượng, thành lập Câu Lạc bộ v.v... thậm chí lợi dụng tên ông trong các dịch vụ mua bán làm ăn như Cà phê Trịnh Công Sơn, Quán Trịnh Công Sơn...thật nhố nhăng. Chung qui cũng một chữ: trục lợi.

Trước ông, lịch sử Việt Nam đã có biết bao "vĩ nhân" về văn cũng như võ đã dày công dựng nước và giữ nước. Hỏi mấy ai được nhà nước tổ chức rầm rộ, ồn ào như đám ma của ông không? Tôi nghĩ chẳng cần phải có câu trả lời. Bởi ông đã có công gì cho đất nước ngoài mấy bản nhạc xu thời mà mọi người còn đang tranh cãi? Nếu thực sự nó có giá trị lâu dài thì chỉ là cho cá nhân ông thôi. Lợi gì cho đất nước! Bây giờ thực sự ông đã đứng ngoài vòng cương tỏa. Ông hãy nhìn lại xem. Có phải quanh ông chỉ là đám nhặng xanh đang lăng xăng làm trò múa rối?

Riêng tôi, tôi vẫn thích và thương ông với con người nghệ sĩ, bình dị, tự nhiên, hiền lành. Một thuở mà chúng tôi vẫn thường gọi ông một cách thân thương: "Chàng nghệ sĩ nhứt y nhứt quởn"*.

Ghi chú:
* Nhứt y nhứt quởn: Chỉ một bộ quần áo duy nhất.

(Hết)

No comments: