Ngay
cả khi Harris thắng cử, cuộc bầu cử của nước Mỹ vẫn là một thảm kịch
Ban Biên tập EAF
- East Asia Forum
Song
Phan chuyển ngữ - Báo Tiếng Dân
29/10/2024
Bên
ngoài nước Mỹ, người ta thường nghe rằng khả năng tiếp tục tranh cử của Donald
Trump — bất chấp việc ông ngày càng kêu gọi tới sự cố chấp và khinh miệt rõ
ràng đối với pháp quyền và các chuẩn mực của sự công bằng dân chủ — cho thấy rằng
có điều gì đó đặc biệt bị phá vỡ trong xã hội Mỹ.
Đây
là một quan điểm vừa quá bi quan vừa quá nhuốm màu bởi chủ nghĩa ngoại lệ của Mỹ.
Trong mọi nền dân chủ lớn, luôn có một nhóm cử tri có sở thích chính trị phi tự
do hoặc thậm chí là độc đoán, và thường có phần lớn những người giảm nhẹ hoặc
bào chữa cho những hành vi sai trái của một nhà lãnh đạo mà họ cảm thấy đang bảo
vệ lợi ích của họ. Ở châu Á, những thành công trong bầu cử của Joko Widodo ở
Indonesia (và người kế nhiệm ông, Prabowo Subianto), Rodrigo Duterte ở
Philippines và Narendra Modi ở Ấn Độ đều là minh chứng cho động lực này.
Rõ
ràng là rất đáng buồn khi thấy chủ nghĩa dân túy độc đoán này ăn sâu vào một
trong những đảng lớn ở quốc gia giàu có và hùng mạnh nhất thế giới, dù Trump thắng
hay thua. Quan điểm lạc quan của nhiều người Mỹ về một chính trị gia bị chính cựu
chánh văn phòng của mình dán nhãn là phát xít, thật đáng lo ngại. Nhưng điều
này không phải là duy nhất khi xem xét trong bối cảnh chính trị phi tự do toàn
cầu — và đóng vai trò như một lời nhắc nhở rằng những đe dọa đối với nền dân chủ
ở phương Tây chủ yếu xuất phát từ bên trong, không phải từ Bắc Kinh hay Moscow.
Hoa
Kỳ đặc biệt không may mắn trong số các nền dân chủ giàu có trên thế giới khi có
một số đặc điểm trong hệ thống chính trị của mình — một hệ thống sơ bộ không có
điều khoản loại trừ, trong đó một người ngoài cuộc theo chủ nghĩa dân túy có thể
đánh bại đa số ủng hộ chế độ nhưng chia rẽ, và hệ thống đại cử tri đoàn có thể
tạo ra những chiến thắng bất ngờ cho người thua cuộc ở phiếu phổ thông — phù hợp
với các chiến lược của Trump. Các phân tích về những gì Trump ‘nói về nước Mỹ’
cần phải tính đến cách mà sự bất bình và phân cực vốn đã đưa Trump lên bản đồ
chính trị tương tác với các yếu tố thể chế này.
Điều
này không nhằm giảm nhẹ thiệt hại mà Trump phải gánh chịu nếu ông ta thắng cử
vào ngày 5 tháng 11. Lý lẽ (tương đối) bình tĩnh về Trump luôn là, khi đưa ra
những hứa hẹn kỳ quặc ông ta không thật sự có ý như vậy, hoặc ông sẽ không bao
giờ có thể thực hiện chúng vì bản thân bất tài và lười biếng, hoặc vì có sự cản
trở của những nhà kỹ trị bảo thủ chính thống hơn xung quanh ông.
Quan
điểm đó bị phá vỡ bởi thực tế là Trump thực sự đã thực hiện các lời hứa kinh tế
cốt lõi của mình vào lần trước — một cuộc chiến thương mại với Trung Quốc, cắt
giảm lớn thuế và những nỗ lực chính trị hóa tình trạng luật lệ và tư pháp của
Hoa Kỳ. Cay đắng vì thất bại năm 2020 và khả năng phải chịu hậu quả pháp lý cho
những nỗ lực lật ngược nó, và tách xa với những nhân vật chính sách kinh tế và
an ninh quốc gia của Đảng Cộng hòa thông thường đã từng xuất hiện trong nhiệm kỳ
đầu tiên của mình, sự bất tài và tội phạm của Trump có khả năng sẽ được đưa ra
một cách nguyên vẹn trong một nhiệm kỳ thứ hai.
Đó
là lý do tại sao những suy nghĩ bốc đồng của Trump về kinh tế, từ thuế quan
toàn diện đến trục xuất hàng loạt, đến làm suy yếu tính độc lập của Cục Dự trữ
Liên bang, cần được xem xét nghiêm túc như một bản kế hoạch kinh tế tiềm năng —
một kế hoạch sẽ làm lạm phát tồi tệ hơn, kìm hãm tăng trưởng và gây ra thiệt hại
to lớn cho nền kinh tế Hoa Kỳ.
Tất
cả những ai quan tâm đến nền dân chủ Hoa Kỳ và muốn duy trì sự phục hồi chủ
nghĩa quốc tế của Hoa Kỳ như một triển vọng thực tế, sẽ cầu mong chiến thắng —
và càng có tính quyết định càng tốt — cho Kamala Harris và Tim Walz.
Nhưng
như Peter Drysdale và Liam Gammon viết trong bài báo chính của tuần này, một cuộc
tính sổ trung thực về những rủi ro dính dáng đến cuộc bầu cử này đối với châu Á
trong ngắn hạn đến trung hạn, đặc biệt là về kinh tế, sẽ kết luận rằng cuộc bầu
cử này không như những gì chúng ta thấy.
Họ
nói rằng, ‘Ngay cả khi Hoa Kỳ xoay xở để tránh thảm họa – cho các thể chế dân
chủ, sự gắn kết xã hội và vị thế quốc tế – một nhiệm kỳ thứ hai của Trump, thì
‘thực tế khắc nghiệt vẫn là cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2016 đã thay đổi
cơ bản cách các nhà chiến lược chính sách kinh tế ở Đông Á và Thái Bình Dương
phải suy nghĩ về vai trò của Hoa Kỳ trong chế độ thương mại toàn cầu’, theo những
cách cũng sẽ định hướng cho chính sách của chính quyền Harris.
Chính
sách thương mại ‘lấy người lao động làm trung tâm’ (worker-centric) hiện đang
được Joe Biden áp dụng chỉ đơn giản là một sự đổi tên có tính tiến bộ của chủ
trương ‘Nước Mỹ trước hết’ (America First). Trước đây, ngoại giao kinh tế quốc
tế ‘lấy người lao động làm trung tâm’ chỉ có nghĩa là nhấn mạnh vào sự hội tụ
trong tiêu chuẩn lao động giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển
trong khuôn khổ các cuộc đàm phán thương mại đa phương, như người ta đã thấy
trong cách tiếp cận của chính quyền Obama đối với Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP).
Giờ
đây, tất cả dường như là một kỷ nguyên vàng cho sự lãnh đạo của Hoa Kỳ về
thương mại và sự tham gia kinh tế với Châu Á – Thái Bình Dương. Sự tập trung được
cho là vào người lao động trong chính sách thương mại ‘lấy người lao động làm
trung tâm’ ngày nay không bao hàm việc sử dụng quyền tiếp cận thị trường Hoa Kỳ
như một con bài mặc cả để thúc đẩy các cải cách thân thiện với lao động ‘phía
sau biên giới’ ở nước ngoài trong khuôn khổ tự do hóa đa phương, theo kiểu những
năm thời Obama. Thay vào đó, nó có nghĩa là “sự đồng thuận Washington mới” do Cố
vấn An ninh Quốc gia Jake Sullivan đưa ra – được đánh dấu bằng thuế quan, chính
sách công nghiệp và việc sử dụng lá bài thoát khỏi nhà tù an ninh quốc gia dể bảo
vệ các khu vực ‘chiến lược’.
Điều
đó đã áp đặt nhiều chi phí lên nền kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương nói chung
và sẽ áp đặt chi phí cao lên Hoa Kỳ trong dài hạn, dù trong ngắn hạn có thúc đẩy
một số nền kinh tế trong khu vực của chúng ta từ ‘việc tích hợp sản xuất các nước
bạn vào hệ chuỗi cung ứng trong nước’ (friend-shoring) và sự thúc đẩy việc làm
tại Hoa Kỳ và đầu tư vào khu vực tư nhân được ghi nhận là nhờ ‘chuyển việc làm
về nước’ (re-shoring) của các ngành công nghiệp được trợ giúp bởi chính sách
công nghiệp và bảo vệ thương mại thời Biden.
----------------
Tin
liên quan
Những lời xúc phạm
nói lên điều gì về cuộc đấu Trump-Harris?
23
tháng 9 năm 2024
Trump hay Harris?
Các nhà ngoại giao chọn ai?
30
tháng 9 năm 2024
No comments:
Post a Comment