Biển
Đông gây « xung đột » ngay cả trong cách đặt tên
Chi Phương - RFI
Đăng
ngày: 12/10/2024 - 11:36
Cuộc
họp thượng đỉnh của khối ASEAN với trọng tâm là Biển Đông, dấy lên câu hỏi có
nên thống nhất cách gọi tên cho vùng biển tranh chấp ; Thế bất lực của Lực
lượng gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc tại Liban ; Cuộc cạnh tranh thương mại
giữa Trung Quốc và châu Âu, trên đây là những chủ đề chính trong mục tạp chí thế
giới đó đây tuần này.
HÌNH
:
Tàu
tiếp tế Unaizah của Philippines (ở giữa), bị hai vòi rồng của lực lượng bảo vệ
bờ biển Trung Quốc bắn trúng, khiến nhiều thành viên thủy thủ đoàn bị thương
khi đang tiến vào Bãi Cỏ Mây (Second Thomas), trên biển Đông, ngày
05/03/2024. © AP/Philippine Coast Guard
Trong
tuần vừa qua, Hội nghị thượng đỉnh Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) lần thứ
44 và 45 cũng như các thượng đỉnh ASEAN với các đối tác đã diễn ra tại
Vientiane, Lào, quy tụ nhiều lãnh đạo trong khu vực và các đối tác quốc tế với
trọng tâm về khủng hoảng ở Miến Điện và đặc biệt là căng thẳng tại Biển Đông.
Nhiều
cuộc đụng độ đã xảy ra gần đây giữa tàu cá Trung Quốc với tàu cá của Việt Nam
và Philippines. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với gần như toàn bộ vùng biển
chiến lược, gây tranh chấp với nhiều nước thuộc ASEAN, như Philippines, Việt
Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia.
Một
điểm đáng nói là vùng biển giàu tài nguyên này, được biết đến với nhiều tên gọi
khác nhau, phản ánh mối liên hệ, đa dạng về lịch sử, văn hóa và địa chính trị của
khu vực, theo nhận định của The Diplomat.
Biển
Đông, Biển Tây, hay Nam Hải...
Việt
Nam gọi là Biển Đông, nhấn mạnh đến những di sản về hàng hải, coi vùng biển này
là một tuyến đường huyết mạnh cho trao đổi thương mại và văn hóa. Cách gọi của
Việt Nam cũng gợi lên những thách thức yêu sách của Trung Quốc và các tuyên bố
chủ quyền lịch sử của Việt Nam có từ nhiều thế kỷ trước, bao gồm cả giai đoạn Bắc
thuộc. Trong nhiều thế kỷ, vùng biển này được gọi là biển Champa, như một cách
để công nhận sử kiểm soát của đế chế Champa ở miền trung Việt Nam và các khu vực
quan trọng của miền đông Cam Bốt và Lào từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 15.
Nếu
như Trung Quốc gọi vùng biển này là Nam Hải, để nhấn mạnh đến vị trí địa lý, nằm
ở phía nam Trung Quốc, thì trong tiếng Anh, biển Đông được đặt tên là “South
China Sea”. Đối với phương tây, “South China Sea” – “biển
phía Nam Trung Quốc” phản ánh quan điểm lấy châu Âu làm trung tâm, bắt
nguồn từ thời thực dân, thể hiện mối quan tâm với việc mở rộng giao thương với
Trung Quốc, được coi là một đối tác thương mại lớn.
Philippines
thì gọi là “biển Tây” được khởi nguồn từ động lực chính trị vào năm 2012, trước
sự xâm nhập ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Sử dụng tên này cho thấy nỗ lực
của Philippines trước những thách thức chủ quyền, và khẳng định lợi ích của
mình trước sự cạnh tranh ngày càng gia tăng.
Với
cùng lý do, vào năm 2017, chính phủ Indonesia cũng đã công bố một bản đồ chính
thức mới đổi tên một phần biển Đông nằm trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của
mình thành "Laut Natuna Utara" hay Biển Bắc Natuna. Sáng kiến này
xuất hiện sau nhiều lần tàu thuyền Trung Quốc xâm nhập. Việc đổi tên này làm nổi
bật mối quan tâm của Indonesia về quyền và chủ quyền của mình đối với EEZ xung
quanh quần đảo Natuna.
Giáo
sư Edmund Lin, giảng viên tại Viện nghiên cứu giáo dục quốc gia, thuộc Nanyang
Technological University (Singapore), cho rằng “trước các tranh chấp hiện
nay tại vùng biển tranh chấp mang nhiều tên gọi, chúng ta nên cân nhắc tìm ra một
cái tên thay thế, thống nhất, để hợp tác và hiểu rõ hơn về khu vực này”. Nhà
nghiên cứu đề xuất đặt ra một tên mới là “Biển Đông Nam Á”, một
cái tên được công nhận vị trí địa lý và lợi ích chung, nhấn mạnh đến sự hợp tác
hơn là cạnh tranh, làm nổi bật sự kết nối giữa các quốc gia trong khu vực, cũng
như sự phụ thuộc lẫn nhau.
“Một
cái tên thể hiện tính bao hàm hơn” có thể thúc đẩy đối thoại và giảm căng
thẳng, và có thể làm nền tảng cho các sáng kiến hợp tác giải quyết các vấn đề quan trọng như
biến đổi khí hậu, quyền đánh bắt và khai thác, cũng như an toàn và an ninh hàng
hải.
Sự
bất lực của Lực lượng gìn giữ hòa bình tại Liban
thời
sự tại Trung Đông, trong bối cảnh các cuộc giao tranh giữa Israel và lực lượng
Hezbollah ở Liban vẫn rất căng thẳng, hai binh sĩ thuộc lực lượng gìn giữ hòa
bình của Liên Hiệp Quốc tại Liban (FINUL) đã bị thương do cuộc tấn công của Nhà
nước Do Thái nhắm vào trụ sở tại Naqoura, miền nam Liban. Vụ việc đã khiến nhiều
lãnh đạo phương Tây phẫn nộ.
Kể
từ ngày 30/09, khi Israel mở chiến dịch tấn công lvào Liban, lực lượng Mũ Nồi
Xanh, với nhiệm vụ giám sát việc chấm dứt chiến sự, bảo đảm quyền tiếp cận nhân
đạo cho thường dân, đã ngừng các hoạt động tuần tra. Họ chỉ có thể quan sát
tình hình chiến sự giữa Hezbollah và Israel từ căn cứ quân sự.
Được
thành lập vào năm 1978, có nhiệm vụ giám sát việc tuân thủ nghị quyết 1701 của
Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, tạo một vùng đệm giữa Israel và Liban. Lực lượng
này hiện gồm 10 000 quân nhân, đến từ 50 quốc gia, cũng giúp hỗ trợ Nhà nước
Liban khôi phục quyền lực ở miền nam nước này, chủ yếu do Hezbollah kiểm soát.
Tuy
nhiên nhiệm vụ này hoàn toàn không khả thi. Thứ nhất là không bên nào tôn trọng
nghị quyết 1701. Thứ hai, theo giáo viên lịch sử Guillaume Lasconjarias, tại đại
học Paris Sorbonne của Pháp, trả lời Nouvel Obs, “lực lượng này chỉ có quyền tự vệ. Nếu
không phải là mục tiêu tấn công trực tiếp, thì họ buộc phải chờ đợi tại căn cứ
và quan sát”.
Nhà
nghiên cứu về quân sự nói thêm “có một hình thức không phải là thiếu
kiên quyết, mà đúng hơn là đạo đức giả từ phía các cường quốc... Họ
muốn lực lượng này hiện diện tại một khu vực nhiều căng thẳng. Nếu lực lượng
này không được triển khai thì tình hình có thể xấu đi, nhưng họ ở đó mà không
được cấp phương tiện. Họ hiện diện ở đó, quan sát các hoạt động khác nhau,
nhưng lại bị ngăn cản bởi cả Israel và Hezbollah và không có khả năng hành động.
Đây là một loại « bất lực » trong quyền lực ».
Bầu
cử Hoa Kỳ tác động đến cuộc chiến ở Ukraina
Những
diễn biến chính trị của Hoa Kỳ ảnh hưởng trực tiếp tới các viện trợ cho
Ukraina. Trong tuần vừa qua, vắng mặt tổng thống Mỹ Joe Biden, cuộc họp
Ramstein, quy tụ khoảng 50 lãnh đạo ủng hộ Kiev, dự trù được tổ chức tại Đức
trong tuần này đã bị hoãn lại vô thời hạn. Không tiếp cận được với Hoa Kỳ, tổng
thống Ukraina đành phải tiếp tục chuyến công du châu Âu để tìm kiếm viện trợ từ
các đồng minh Anh, Pháp, Đức.
Vào
tháng 9, trong chuyến công du tới Hoa Kỳ, tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky
đã trình bày kế hoạch chiến thắng Nga trước Quốc Hội Mỹ. Thế nhưng chuyến thăm
này đã bị Donald Trump và phe Cộng Hòa mạnh mẽ chỉ trích, chính quyền Biden
cũng không đánh giá cao kế hoạch của ông Zelensky, theo nhận định của The Economist. Hiện, “không ai trong
chính phủ của Biden tin rằng Ukraina có thể chiếm lại bằng biện pháp quân sự những
vùng lãnh thổ đã đánh mất”.
Sắp
tới, cuộc bầu cử tổng thống ở Hoa Kỳ vào tháng 11 sẽ tạo ra những bước ngoặt
nào cho cuộc chiến chống Nga ở Ukraina ? Theo The Economist, viễn cảnh tiến
đến hòa bình cho Ukraina khá xa vời vì cả hai ứng viên Kamala Harris và Donald
Trump, đều không có chiến lược rõ ràng đối với hòa bình cho Ukraina. Ứng viên đảng
Dân Chủ Kamala Harris khẳng định ủng hộ Kiev và tiếp tục tìm kiếm viện trợ quân
sự, nhưng chưa chắc đã kiểm soát được Quốc Hội. Ông Trump thì rỏ ra thiếu nhất
quán, mơ hồ, hứa hẹn chấm dứt chiến tranh, thúc giục Nga và Ukraina ngồi vào
bàn đám phán.
The
Economist đưa ra các kịch bản khác nhau. Nếu đảng Dân Chủ giành lại đa số tại Hạ
Viện, hiện do phe Cộng Hòa nắm giữ, cũng như giữ được chức tổng thống thì viện
trợ cho Ukraina sẽ vẫn tiếp tục được duy trì. Còn nếu ông Trump đắc cử, thì có
điều không chắc là liệu ông sẽ trao quyền cho những người theo “chủ
nghĩa quốc tế”, hay “chủ nghĩa bảo hộ”. Lời hứa của ông
Trump về việc nhanh chóng kết thúc chiến tranh là “không thể tin được”.
Valerii
Chalyi, cựu đại sứ Ukraina tại Mỹ trả lời trang RBC Ukraina giải thích : “Tương quan chính
trị tại Quốc Hội Hoa Kỳ trên thực tế quan trọng hơn tên của tân tổng thống. Ví
dụ, giữa việc Donald Trump nắm quyền kiểm soát cả Thượng và Hạ viện, và việc
ông Trump chỉ kiểm soát Thượng Viện là hai chuyện khác nhau. Tương tự, nếu
Kamala Harris không kiểm soát được Hạ Viện thì sẽ thiếu đòn bẩy về tài chính.
Cuộc bầu cử sẽ diễn ra vào ngày 05/11, đó là một ngày rất quan trọng với chúng
tôi. Có vẻ như mọi người đều tin rằng, giải pháp chấm dứt chiến tranh với Nga sẽ
được đưa ra sau đó, vào năm sau, và có thể thành hiện thực… Trên thực tế,
Ukraina sẽ phải làm việc với bất kỳ ai được người dân Mỹ bầu ra, và chúng tôi cần
có sự chuẩn bị… Tôi không nghĩ rằng nếu ứng viên của đảng Dân Chủ thắng thì sẽ
dễ dàng hơn, bởi những người trong đội ngũ của Kamala Harris không hề dễ làm việc
cùng. Tôi đã làm việc với họ, và hầu hết không muốn hỗ trợ Ukraina các loại vũ
khí sát thương.”
Thăm
dò được The Economist trích dẫn, cho thấy hơn một nửa người dân Ukraina chấp nhận
mất Donbass và bán đảo Crimée để đổi lấy chủ quyền đối với các khu vực bị chiếm
đóng là Zaporijjia và Kherson. Khoảng 38% người Ukraina cho biết sẵn sàng chấp
nhận ranh giới lãnh thổ hiện tại, nếu được kết nạp vào Liên Hiệp Châu Âu và nhận
được tài trợ để tái thiết. Con số này tăng lên 47% nếu Ukraina được chào đón
vào NATO - đây có lẽ là câu hỏi nhạy cảm nhất đối với vị tổng thống tiếp theo.
Cuộc
so găng thương mại giữa Trung Quốc và châu Âu
Kể
từ thứ Sáu này, các nhà xuất xuất khẩu rượu Cognac ở châu Âu sẽ phải nộp
một khoản « đặt cọc » trị giá khoảng 35 % giá trị các chai rượu
xuất khẩu sang Trung Quốc cho hải quan Trung Quốc. Theo Bắc Kinh, quyết định
này là để chống tình trạng bán phá giá, được xem như biện pháp trả đũa về
Bruxelles tăng thuế đối với các xe điện do Trung Quốc sản xuất được nhập vào khối.
Từ
Bắc Kinh, thông tín viên Cléa Broadhurst cho biết thêm thông tin :
« Khoản
đặt cọc tại hải quan Trung Quốc là để bù vào các khoản phụ phí có thể tăng
trong tương lai. Đối với châu Âu, điều này làm phức tạp việc xuất khẩu sang
Trung Quốc, bởi vì các nhà xuất khẩu rượu cognac có nguy cơ phải tăng giá, và
có thể ảnh hưởng đến tính cạnh tranh và giá trên thị trường Trung Quốc.
Tuy
nhiên theo ông Yuan, làm việc cho doanh nghiệp Tai De, nhập khẩu rượu mạnh, quyết
định này tác động không đáng kể đến hoạt động của mình. Ông
nói : « Thật may là chúng tôi không bị ảnh hưởng. Chúng tôi xử
lý rượu mạnh với số lượng lớn, hơn 200 lít, và chúng tôi nhập khẩu theo lô. Từ
năm ngoái, thị trường đã không suôn sẻ, nhưng hiện đã cải thiện hơn. Những người
bị ảnh hưởng nhiều nhất chắc chắn là các nhà nhập khẩu các loại rượu thương hiệu
lớn.
Một
nhà kinh doanh khác thì giải thích rằng hiện nay hàng hóa trong kho đủ để bán
cho người tiêu dùng Trung Quốc trong 3 năm tới, do vậy quy định mới này không tạo
thành vấn đề trong ngắn hạn.
Một
cuộc chiến tranh thương mại giữa châu Âu và Trung Quốc là hoàn toàn có thể xảy
ra nhưng không phải là không tránh được.
Các
căng thẳng về thuế liên quan đến xe điện và các sản phẩm như Cognac chỉ ra rằng
tình hình có thể nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, hai bên đều có các lợi ích kinh tế
chung, nếu cuộc xung đột kéo dài thì sẽ gây hại cho cả hai. »
------------------------------
Các
nội dung liên quan
ASEAN
ASEAN+1 :
Mỹ lên án các hành xử ‘‘ngày càng nguy hiểm’’ của Trung Quốc ở Biển Đông
PHÂN
TÍCH
Tổng
thống Biden vắng mặt tại hội nghị ASEAN – Vientiane : một sai lầm lớn của Hoa Kỳ
TRUNG
QUỐC - PHILIPPINES - BIỂN ĐÔNG
No comments:
Post a Comment