Lấy
Việt Nam làm trung tâm, nhìn từ hội thảo tại Đại học Berkeley
03/05/2024
Hội
nghị về Việt Nam thế kỷ 20 tại Đại học Berkeley. Từ trái: Giáo sư ĐH Berkeley
Peter Zinoman, Giáo sư ĐH Michigan Charles Keith, Giáo sư ĐH Ohio Alec Holcombe
và nghiên cứu sinh ĐH Yale Thanh Nguyễn (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Được bảo
trợ của Khoa Sử và Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, hội nghị chủ đề “Vietnam
Centric Approaches to Vietnam’s Twentieth Century History” (Lịch sử Việt Nam Thế
kỷ 20 từ các phương pháp tiếp cận lấy Việt Nam làm Trung tâm) đã diễn ra
trong hai ngày 19 và 20 tháng Tư vừa qua tại 370 Dwinelle Hall trong khuôn viên
Đại học Berkeley với sự tham dự của nhiều giáo sư, các nhà nghiên cứu và sinh
viên ban tiến sĩ, thạc sĩ đến từ Hoa Kỳ, Canada, Việt Nam, Anh, Pháp,
Singapore.
Trong nửa
thế kỷ qua, khi nói đến Việt Nam thì đề tài chiến tranh được nhắc đến nhiều nhất
và đã có rất nhiều nghiên cứu, nhiều sách viết về các trận chiến từ Ấp Bắc đến
Khe Sanh, từ Mậu Thân ở Huế đến Ia-Drang; về những nỗ lực để kết thúc cuộc chiến
của Lyndon Johnson, của Richard Nixon hay về các nhân vật như Hồ Chí Minh, Võ
Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, nhưng hầu hết đặt trọng tâm là Hoa Kỳ, nhìn qua lăng
kính của người Mỹ hay lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
Khai mạc hội
nghị, giáo sư Peter Zinoman của Khoa Sử Đại học Berkeley giới thiệu nội dung hội
thảo với những tham luận, nghiên cứu theo một hướng mới, như tên của chủ đề hội
nghị đã nói lên điều đó, với trọng tâm nghiên cứu là Việt Nam và người Việt,
không liên quan nhiều đến các nước khác, và tuy đề tài chiến tranh vẫn có nhưng
được nhìn qua lăng kính của người Việt.
Chương
trình gồm tất cả bảy hội thảo với các bài tham luận từ chính trị, xã hội, kinh
tế thương mại, khoa học kỹ thuật, tôn giáo, âm nhạc, hội hoạ liên quan đến Việt
Nam và về những nhân vật người Việt, có người đã vang danh một thời, có người
chưa được biết đến nhiều.
Tham luận
đầu tiên là của Tường Vũ, từ Đại học Oregon, nói về chiến tranh và xã hội miền
Bắc từ 1967 đến 1974, qua chính sách nghĩa vụ quân sự để có quân đem vào Nam, đặc
biệt là sau Tết Mậu Thân 68 và chiến dịch Xuân-Hè 72. Dẫn chứng từ hồi ký, nhật
ký, thơ văn của Trần Độ, Nguyễn Tường Thuỵ, Vương Trí Nhàn hay Trần Vàng Sao
cho thấy thanh niên miền Bắc không phải mọi người đều “nô nức tham gia” nghĩa vụ
quân sự mà có những thanh niên trốn nghĩa vụ bị bắt, bị làm nhục, phải qua kiểm
thảo kiểu như đấu tố thời Cải cách Ruộng đất và trong dân gian có những châm biếm
về các bằng khen cho gia đình có con đi B hay đã hy sinh. Về đời sống xã hội,
khi đó đã có những vần thơ nói lên nếp sống nghèo của dân trong khi cán bộ có đồng
hồ, có đài thì tiền ở đâu mà mua.
Giáo
sư Đại học Oregon Tường Vũ, bên trái, và Giáo sư Đại học Ohio Alec Holcombe (Ảnh:
Bùi Văn Phú)
Jason A.
Picard từ Đại học VIN-Việt Nam nói về hành trình của bộ đội khi theo đường mòn
Hồ Chí Minh vào chiến trường miền Nam không chỉ với mục đích “cứu nước” và “thống
nhất” mà cuộc trường chinh còn là để thể hiện lòng trung thành với tổ quốc Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà như chính sách nhà nước đưa ra, nhưng trong thực tế, qua
tâm tư của một số bộ đội đã thể hiện trên báo chí, qua văn chương, hồi ký, phim
ảnh thì không hẳn như thế.
Phạm Hải
Chung từ Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn đề cập đến vai trò của chính trị viên
trong Quân đội Nhân dân qua công tác tuyên truyền và nâng cao tinh thần chiến đấu
của bộ đội trên chiến trường.
Hình ảnh
phụ nữ miền Bắc trong thời chiến đã được soi chiếu qua tham luận của Lương Thị
Hồng từ Viện Sử học ở Hà Nội. Bà đã phỏng vấn một số phụ nữ đã từng tham gia
Thanh niên xung phong, nhưng không hẳn mọi người đều có “tinh thần yêu nước” và
muốn “giải phóng quê hương”. Có người đi nghĩa vụ vì bố mẹ chết vì bom Mỹ và muốn
bảo vệ tổ quốc. Có cô bị gia đình ép gả cho một cán bộ hợp tác xã mà cô không
yêu, có cô vì muốn thoát cảnh nghèo, muốn xoá lý lịch xấu vì thuộc gia đình địa
chủ, có cô muốn được bình quyền nên đã đăng ký đi chiến đấu.
Cũng liên
quan đến phụ nữ Việt, tham luận của Đỗ Thị Thanh Thuỷ, nghiên cứu sinh ban tiến
sĩ từ Đại học Simon Fraser đề cập đến nữ quyền nhà nước, với khẩu hiệu 5 tốt
hay hoạt động của “đội quân tóc dài” và những sinh hoạt của các hội phụ nữ từ
thời Pháp thuộc đến nay trong việc nâng cao vai trò phụ nữ trong xã hội và qua
những chính sách của đảng và nhà nước. Theo tác giả, các chính sách nhắm tới
bình đẳng giới tính mà nhà nước ban hành là để đáp ứng đòi hỏi của các cơ quan
viện trợ quốc tế.
Charles
Keith từ Đại học Michigan nói về liên hệ giữa cộng sản Pháp và cộng sản Việt
Nam thời tiền cách mạng mà theo tác giả là giai đoạn lịch sử của cộng sản Việt
Nam có mang tính chất cộng hoà qua các tổ chức nghiệp đoàn, có báo chí, hội
đoàn, biểu tình, hội họp, bầu chọn đại diện.
Lê
Antoine, nghiên cứu sinh ban tiến sĩ từ ScienesPo Paris, Đại học Le Havre, bàn
về vai trò của Trung ương cục Miền Nam – COSVN – cũng như vai trò của lãnh đạo
cộng sản miền Nam trong việc tiếp quản những vùng đất tạm chiếm, vùng giải
phóng và trong thời gian đầu sau khi chiếm được miền Nam.
Cùng chủ đề
về COSVN, Cody Billock, nghiên cứu sinh ban tiến sĩ từ Đại học Ohio, nói về bản
chất của những cuộc nổi dậy chống chính phủ Việt Nam Cộng hoà mà cho tới nay
chưa có nhiều nguồn tài liệu để nghiên cứu. Gần đây trong nước cho xuất bản nhiều
tập văn kiện, tổng cộng 18 nghìn trang về COSVN từ 1946 đến 1975 sẽ là một
kho sử liệu cho các học giả nghiên cứu trong tương lai.
Nghiên cứu
về Việt Nam Cộng hoà, Alex-Thái Đ. Võ từ Trung tâm Việt Nam và Văn khố của Đại
học Texas Tech đã giới thiệu một nguồn tài liệu của Việt Nam Cộng hoà qua khoảng
700 cuốn phim, phần lớn đang lưu giữ tại Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ. Nghiên cứu về
nội dung những phim này sẽ giúp nhìn ra những nỗ lực xây dựng quốc gia và những
nét sinh hoạt văn hoá, xã hội, kinh tế, chính trị của Việt Nam Cộng hoà trong
20 năm hiện hữu.
Nghiên cứu
sinh Chu Duy Ly, sắp bảo vệ luận án tiến sĩ từ Đại học Quốc gia Singapore, nói
về Thuỷ điện Đa Nhim tại miền Nam là một công trình mà các cố vấn Mỹ khuyến cáo
không nên làm, nhưng chính phủ Ngô Đình Diệm đã quyết tâm và vận động được sự
giúp đỡ tài chính từ Nhật để xây dựng. Cho đến nay Thuỷ điện Đa Nhim còn tồn tại
như một biểu tượng của sự phát triển thời Việt Nam Cộng hoà.
Dịu-Hương
Nguyễn từ Đại học U.C. Irvine nói về sinh hoạt và quan điểm của một nhóm trí thức,
giáo sư từ Đại học Huế qua tuần báo Lập Trường, chỉ ra được 30 số trong 8 tháng
của năm 1964 là thời điểm miền Nam đầy những biến động chính trị sau khi Ngô
Đình Diệm bị đảo chánh và giết chết. Theo tác giả, Lập Trường có chủ trương chống
cộng, nhưng không chống cộng kiểu Mỹ và nhóm đòi hỏi loại bỏ chính phủ quân phiệt,
thiết lập một chính quyền dân sự cho miền Nam.
Tại hội
nghị, có diễn giả đã chọn nhân vật người Việt làm trọng tâm nghiên cứu. Alec
Holcombe từ Đại học Ohio nói về đóng góp của Vũ Đình Hoè, một nhà luật học xuất
thân từ Trường Luật Đông Dương, trong việc soạn thảo Hiến pháp 1959 và vai trò
của ông khi làm Bộ trưởng Tư pháp liên quan đến những toà án nhân dân đặc biệt
trong Cải cách Ruộng đất mà nạn nhân không được quyền biện hộ hay kháng án.
Người Việt
trong nhiều lãnh vực cũng là những nét chính trong một số bài tham luận tại hội
nghị. Yến Vũ, từ Đại học Fulbright Việt Nam viết về Trần Đức Thảo. Ryan Nelson,
từ Đại học Ohio State, tìm hiểu về cuộc đời của Đại Cathay. Alexander M. Cannon
từ Đại học Birmingham, Anh Quốc, bàn về tư tưởng chính trị văn hoá của Nguyễn
Đăng Thục theo tinh thần “tứ hải giai huynh đệ”. Conor Michael James Lauesen từ
Art Institute ở Chicago đã phân tích ý nghĩa trong các tác phẩm hội hoạ của Bùi
Xuân Phái và Vũ Dân Tân.
Nghiên cứu
về phát triển kinh doanh tại Việt Nam trong đầu thế kỷ trước có Maria Baranova,
nghiên cứu sinh ban tiến sĩ từ Đại học George Washington, qua tham luận có nhắc
đến những nhà tư sản như Nguyễn Hữu Thu, Hoàng Văn Ngọc tuy giầu nhưng không có
ảnh hưởng chính trị vào đầu thế kỷ trước và ngày nay Việt Nam cũng có nhiều
doanh nhân giầu, nhưng tầng lớp này không ảnh hưởng đến chính trường. Tác giả
đưa ra một tấm hình chụp buổi tuyên dương doanh nghiệp Việt Nam tiêu biểu năm
2008, giữa đoàn doanh nhân cả trăm người là tượng Thánh Gióng to cao, nổi bật.
Không hiểu ý nghĩa của một thần thoại Việt giữa những doanh nhân đã nói lên điều
gì, hay ban tổ chức muốn nói gì với các doanh nhân qua bức tượng.
Cũng về
phát triển quốc gia, nghiên cứu sinh Thanh Nguyễn, từ Đại học Yale, trình bày về
những định hướng trong Hiến pháp để xây dựng chủ nghĩa xã hội gồm cách mạng
quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng văn hoá tư tưởng
theo kiểu Liên Xô. Những điều mà Hà Sĩ Phu, Phan Đình Diệu cũng đã phân tích
qua nhiều bài viết cho rằng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam sẽ thất bại.
Về tôn
giáo, Chí-Thiện Bùi từ Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh
trình bày về tiến trình Việt hoá nghi thức phụng vụ của Giáo hội Công giáo Việt
Nam trong giai đoạn sau Công đồng Vatican II từ 1962 đến 1975.
Qua lãnh vực
văn chương nghệ thuật, Uyên Nguyễn từ Đại học Quốc gia Singapore đưa ra một cái
nhìn mới về những tiểu thuyết xuất bản ở miền Bắc sau chiến tranh.
Bài tham
luận viết chung về “nhạc đỏ” của ba tác giả là Vũ Thị Kim Hoa và Phạm Hải Chung
từ Đại học Quốc gia Hà Nội và Đỗ Thị Nụ từ Đại học Đại Nam cho thấy âm nhạc đã
được dùng để vận động quần chúng hậu phương và nâng cao tinh thần chiến đấu của
bộ đội tại chiến trường như thế nào.
Paris By
Night là chủ đề nghiên cứu của Vinh Phú Phạm từ Bard HSEC Queens. Tác giả nhận
định về nội dung các băng đĩa nhạc PBN từ thập niên 1980 đến nay là phản ánh
tính chống cộng và các nét văn hoá của cộng đồng người Việt hải ngoại qua việc
chọn ca khúc và những vở kịch và cho đến năm 2023 PBN vẫn bị cấm phổ biến tại
Việt Nam. Luận đề tác giả đưa ra là trong sinh hoạt văn hoá của người Việt hải
ngoại, ngày nay các nhà nghiên cứu sẽ định hình thế nào là nhạc Việt, hay nhạc
của người Mỹ gốc Việt.
Vượt biên,
vượt biển trong 15 năm sau ngày 30/4/1975 là chủ điểm trong tham luận của Ann
Ngọc Trần, nghiên cứu sinh ban tiến sĩ Đại học Nam California. Tác giả đề cập đến
tầm ảnh hưởng từ các chương trình Việt ngữ của các đài phát thanh quốc tế như
VOA, BBC. Đặc biệt là đài VOA qua các buổi phát thanh liên quan đến sự hiện diện
của tàu Hải quân Hoa Kỳ trong khu vực Biển Đông, hay thông tin về các chính
sách tị nạn của Mỹ có là những động cơ thúc đẩy người Việt ra đi, hay còn những
nguyên do khác.
Đó là tóm
tắt ý chính của các tham luận đã được từng diễn giả trình bày trong 15-20 phút.
Trong phần phản biện và hỏi đáp đã có nhiều đóng góp từ điều hợp viên thảo luận,
những đồng môn và khách tham dự để bổ túc hay gợi mở những góc nhìn khác giúp
cho bài nghiên cứu đạt tới trình độ hàn lâm cao nhất trước khi xuất bản.
Giáo sư
Vân Nguyễn-Marshall từ Đại học Trent, Canada là “keynote speaker” đã nói về đề
tài “The Strange Case of the History of the Vietnam War.” – Trường hợp lạ lùng
về Lịch sử Chiến tranh Việt Nam.
Giáo
sư ĐH Trent Vân Nguyễn-Marshall đang nói về nghiên cứu liên quan đến Việt Nam Cộng
hoà (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Bà kể lại
câu chuyện gia đình. Năm 1978, khi mới định cư ở Canada được ba năm thì bố mẹ bất
ngờ muốn đi xem phim ngoài rạp, lúc đó đang chiếu “Deer Hunter”, là điều làm bà
ngạc nhiên. Bà hỏi bố sau khi xem phim đó thấy thế nào, ông nói phim về chiến
tranh Việt Nam, nhưng tất cả là về người Mỹ. Hình ảnh người Việt chỉ là bóng mờ.
Từ đó, qua
học tập và nghiên cứu bà thấy vai trò của người Việt không phải là trọng tâm của
những nghiên cứu về cuộc chiến có tên Việt Nam, đặc biệt là sự thiếu vắng và những
cái nhìn sai lệch về Việt Nam Cộng hoà.
Diễn giả
đưa ra hình ảnh, tài liệu mà nhiều học giả Mỹ đã dùng để nói xấu lãnh đạo miền
Nam, như George Ball cho rằng Tổng thống Diệm là “messaiah without a message” –
một tiên tri không có định hướng, mà trong thực tế ông Diệm có viễn kiến và những
chính sách kiến quốc.
Hay như Tướng
Nguyễn Cao Kỳ được Chester Cooper xem như “a sax player in a second-rate Manila
night club” – một tay thổi kèn hạng hai trong một quán rượu ở Manila – là những
thí dụ.
Bà bác bỏ
cách nhìn của Christian Appy, của nhà văn Nguyễn Thanh Việt cho rằng chiến
tranh Việt Nam là hoàn toàn do người Mỹ gây ra và chủ động.
Những
nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn-Marshall chỉ ra những nỗ lực của các chính phủ Việt
Nam Cộng hoà trong việc phát triển kinh tế, xã hội trong hai mươi năm, dù phải
đối mặt với chiến tranh. Tác phẩm “Between War and the State” của bà đã minh chứng
cho điều đó, qua việc nhìn lại sinh hoạt của các hội đoàn thanh niên, sinh viên
học sinh, các nghiệp đoàn; các hội thể thao, văn hoá, từ thiện, xã hội, tương tế.
Qua các báo chí đối lập, phong trào chống tham nhũng.
Về bộ phim
“Vietnam War” được chiếu trên hệ thống truyền hình PBS ở Mỹ cách đây bẩy năm,
khi đó giáo sư Nguyễn-Marshall cũng đã lên tiếng với hai nhà làm phim Ken Burn
và Lynn Novick rằng phim tài liệu về Việt Nam mà người Việt không phải là trọng
điểm.
Cùng quan
điểm đó, Giáo sư Peter Zinoman cũng đã viết trên BBC Tiếng Việt khi bộ phim vừa
chiếu tập đầu tiên: “Ý đồ lấy Mỹ làm trọng tâm không hề giấu giếm trong Vietnam
War được thể hiện rõ ngay trong 3 cảnh mở màn giới thiệu phần 1 của bộ phim tài
liệu 10 tập này. Cảnh đầu tiên tả những người lính Mỹ tham chiến, cảnh thứ hai
cho thấy một cuộc diễu binh của quân đội Mỹ, và cảnh thứ ba là lời bình luận của
cựu chiến binh Mỹ Karl Marlantes. Bài hát Hard Rain của Bob Dylan làm nền nhạc
kết thúc phần một càng báo hiệu rõ hơn nữa xu hướng ‘dĩ Mỹ vi trung’ làm điểm
tham chiếu…” (Thấy gì từ tập đầu phim The Vietnam War, BBC.com/vietnamese
19-9-2017)
Sự thiếu vắng
tiếng nói của miền Nam cũng đã được nêu lên với đoàn làm phim trong buổi giới
thiệu bộ phim tại Sài Gòn vào tháng 8/2017. Khải Đơn, một nhà báo danh tiếng,
viết về buổi gặp gỡ với những nhà làm phim:
“Cô gái rất
trẻ giơ tay hỏi nữ đạo diễn Lynn Novick: ‘Tại sao trong những trích đoạn được
xem, tôi chỉ thấy những nhân vật được phỏng vấn từ miền Bắc Việt Nam? – Vậy
trong bộ phim tài liệu sắp chiếu có những người từ miền Nam được trả lời phỏng
vấn không?’ Khán phòng im lặng chờ đợi.”
“Nhưng đó
không phải người đầu tiên đặt câu hỏi đó trong buổi chiếu giới thiệu phim ‘The
Vietnam War’ – bộ phim tài liệu 10 tập do Ken Burns và Lynn Novick thực hiện
trong 10 năm về cuộc chiến tranh Việt Nam – sắp được công chiếu.”
“Câu hỏi đại
diện cho rất nhiều vết nứt hồ nghi và đầy ngờ vực của những khán giả trẻ đã có
mặt tại Tổng Lãnh sự quán Mỹ tại Sài Gòn ngày hôm ấy, muốn tìm kiếm một diện mạo
khác của cuộc chiến đã đóng vẩy trên thân thể mình suốt hàng chục năm dài.”
(Vietnam War: ‘Cuộc chiến day dứt tất cả chúng tôi’, BBC.com/vietnamese
17-9-2017)
Theo cách
nhìn lịch sử của Giáo sư Zinoman, cả chục triệu người Việt đã tham gia chiến
tranh, mấy triệu người của hai miền Nam, Bắc chết vì chiến tranh, so với gần 60
nghìn lính Mỹ tử trận thì vai trò của người Việt phải là trọng tâm của các phim
tài liệu, các nghiên cứu học thuật. Hội nghị hôm nay đưa ra cách tiếp cận lịch
sử Việt Nam trong thế kỷ vừa qua bằng nhãn quan của chính người Việt.
Là giáo sư
Khoa Sử chuyên về Việt Nam và Đông Nam Á của U.C. Berkeley, nơi đã có nhiều
liên quan đến cuộc chiến Việt Nam, từ ba thập niên qua, dưới sự hướng dẫn của
Giáo sư Zinoman, một số nhà nghiên cứu, nhà sử học với những góc nhìn mới về cuộc
chiến này đã được đào tạo như Tường Vũ, Alec Holcombe, Jason Picard, Nu-Anh Trần,
Martina Nguyễn, Uyên Nguyễn, Jenny Phạm.
Tuy nhiên
giáo sư cũng đã nhắc nhở họ và những nhà nghiên cứu rằng, sang năm là dịp kỷ niệm
50 ngày kết thúc cuộc chiến và sẽ có nhiều hội nghị liên quan, mọi người cần
chuẩn bị để đương đầu với cách nhìn cũ của những học giả kỳ cựu.
Bùi Văn
Phú
Giảng
viên đại học cộng đồng từ vùng Vịnh San Francisco, California,
No comments:
Post a Comment