Mối
quan hệ truyền thống khiến Việt Nam khó xử trong xung đột Israel-Hamas
Thu Hằng - RFI
Đăng ngày: 04/12/2023 - 14:12
.
Israel là một trong những đối tác hợp
tác thương mại, đầu tư và lao động quan trọng hàng đầu của Việt Nam ở Trung
Đông. Khoảng 500 người Việt sinh sống và làm việc ở Israel. Là nước thứ 16 ký
Hiệp định Thương mại Tự do với Việt Nam, Israel còn là nguồn cung cấp vũ khí,
trang thiết bị quốc phòng giúp Hà Nội đa dạng hóa đối tác. Tuy nhiên, cuộc chiến
Israel-Hamas đẩy Việt Nam vào thế “tế nhị” trong khi cả Israel
và Palestine đều có mối quan hệ lịch sử với Việt Nam.
https://s.rfi.fr/media/display/badffa06-8706-11ee-a9e5-005056a90284/w:980/p:16x9/AP111123055241.webp
Tổng thống Israel Shimon Peres (T) và tổng bí thư đảng
Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội, Việt Nam, ngày 23/11/2011. AP
- Meng Sheng
Ngày 24/10/2023, tại Liên Hiệp Quốc, đại sứ Đặng Hoàng Giang đã kêu gọi
các bên ngừng bắn ngay lập tức, kiềm chế tối đa, tôn trọng luật nhân đạo quốc tế,
bảo đảm an toàn và thả ngay lập tức cho tất cả các con tin, giảm thiểu thiệt hại
đối với cơ sở hạ tầng dân sự thiết yếu. Đại sứ Giang cũng nhấn mạnh lập trường
của Việt Nam ủng hộ giải pháp hai Nhà nước với Đông Jerusalem là thủ đô của Nhà
nước Palestine và dựa trên các đường biên giới trước năm 1967.
Trả lời RFI Tiếng Việt, giáo sư Pierre Journoud, chuyên về lịch sử Việt
Nam, Đại học Paul Valery - Montpellier 3 (Pháp), nhận định những phát biểu của
đại sứ Giang phần nào “có lợi cho Palestine”. Nhưng nhìn chung
Việt Nam “có lập trường khá trung lập, tương tự với nhiều nước
trên thế giới”. Và điều này "thể hiện mong muốn bảo vệ luật
pháp quốc tế và phù hợp với lợi ích của Việt Nam". Vậy
Hà Nội duy trì quan hệ với Israel và Palestine như thế nào ? Giáo sư Pierre
Journoud trả lời một số câu hỏi của RFI Tiếng Việt.
https://s.rfi.fr/media/display/147ac6ba-b0f6-11ec-a745-005056a97e36/IMG_3722.webp
Giáo sư lịch sử đương đại Pierre Journoud, Đại học
Paul Valéry - Montpellier 3, giới thiệu với RFI Tiếng Việt cuốn Un triangle à
l'épreuve. La Chine, les Etats-Unis et l'Asie du Sud-Est depuis 1947 (tạm dịch
: Một tam giác chiến lược trải qua thử thách. Trung Quốc, Hoa Kỳ và Đông Nam Á
từ 1947), ngày 19/04/2022. © RFI / Thu Hằng
*
RFI : Việt
Nam chính thức thiết lập quan hệ với Israel trong thập niên 1990. Mối quan hệ
song phương tiến triển như thế nào để Israel hiện trở thành một trong những đối
tác quan trọng của Hà Nội ?
GS
Pierre Journoud : Tôi muốn ngược dòng thời gian một chút để hiểu
thêm bối cảnh. Trái với chúng ta hình dung, Việt Nam có mối quan hệ với Israel
từ lâu. Với Israel, đó là mối quan hệ “bạn hữu” giữa chủ tịch Hồ Chí Minh và
David Ben-Gourion, được coi là nhà lập quốc Israel.
Năm 1946, Hồ Chí Minh được tiếp đón trọng thể ở Paris với tư cách chủ tịch
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đến tham dự Hội nghị Fontainebleau. Tại Paris, Hồ
Chí Minh gặp David Ben-Gourion, người sau này trở thành thủ tướng Israel giai
đoạn 1948-1954 và 1955-1963. Lúc đó, chủ tịch Hồ Chí Minh thậm chí còn đề xuất
đón Chính phủ Do Thái lưu vong ở miền bắc Việt Nam nhưng Ben-Gourion từ chối.
Năm 1948, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua việc phân chia Palestine, cho
phép thành lập Nhà nước Israel (14/05/1948) trên một phần lãnh thổ của
Palestine. Nghị quyết này phần nào giống với đề xuất trước đó của Hồ Chí Minh.
Đúng là mối quan hệ Việt Nam-Israel thực sự phát triển từ những năm 1990
vì trước đó bị Chiến tranh lạnh cản trở. Việt Nam theo Liên Xô, trong khi khối
này bị Israel cáo buộc mang tư tưởng bài Do Thái. Trở ngại lớn đó chỉ được dỡ bỏ
sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc và liên minh gần như duy nhất của Việt Nam với
Liên Xô chấm dứt. Việt Nam và Israel thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1993,
đánh dấu một trang mới trong quan hệ giữa hai nước. Năm 2005, hai nước tổ chức
đối thoại chính trị thường niên ở cấp ngoại trưởng. Đại sứ quán Việt Nam được mở
ở Tel-Aviv năm 2009, sau 16 năm Israel mở đại sứ quán ở Hà Nội.
Nếu đúng như thông tin tôi được biết, chuyến công du của tổng thống
Shimon Peres năm 2011 dường như đánh dấu một bước ngoặt khi ông thuyết phục các
nhà lãnh đạo Việt Nam về những tiềm năng, cơ hội phát triển kinh tế lớn mà mối
quan hệ song phương có thể mang lại. Đây là điểm khá thú vị bởi vì ngoài
Singapore - một trong những đồng minh châu Á thân cận nhất của Israel - Hà Nội
là một đối tác quan trọng của Israel cho dù Việt Nam vẫn chống Israel trong khoảng
138 lần bỏ phiếu ở Liên Hiệp Quốc liên quan đến Nhà nước Do Thái kể từ năm
2015.
Có thể thấy một sự “thiếu kết nối”, mà tôi thấy khá thú vị trong một số
bài phân tích chuyên sâu : Một Nhà nước - ở đây là Việt Nam - vì những lý
do liên quan đến tình đoàn kết với Palestine chống thực dân, chống đế quốc có từ
thời chiến tranh Việt Nam, vẫn bỏ phiếu để chống lại Israel và các vấn đề liên
quan đến Israel-Palestine ở Liên Hiệp Quốc. Nhưng điểm này đi ngược lại với mối
quan hệ chính trị, đặc biệt là kinh tế, được phát triển sâu sắc và năng động từ
nhiều năm nay giữa Israel và Việt Nam.
*
RFI
: Có thể thấy quốc phòng là một trong những chương trình hợp tác nổi bật
nhất giữa Việt Nam và Israel. Gần đây, hai nước ký Hiệp định Thương mại Tự
do ngày 25/07/2023. Nhìn chung, hai nước phát triển hợp tác trong những
lĩnh vực nào ?
GS
Pierre Journoud : Đúng, đó là những lĩnh vực mà hai nước phát
triển mối quan hệ đặc biệt hơn cả, ngoài ra phải kể thêm nông nghiệp và du lịch.
Nhìn chung, hợp tác song phương được phát triển trong mọi lĩnh vực, kể cả công
nghệ sinh học.
Về kinh doanh, rất nhiều công ty Israel đầu tư vào Việt Nam, nhất là
trong các ngành nông nghiệp, dược phẩm, công nghệ. Israel cũng đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong việc đào tạo nghề, khoa học-công nghệ, quản lý nông nghiệp
ở cấp địa phương. Ở chiều ngược lại, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam cũng đầu
tư vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển ở Israel. Tôi lấy ví dụ tập đoàn TH
Group hợp tác với nhiều doanh nghiệp công nghệ Israel chuyên về sản xuất hệ thống
vắt sữa tự động và hệ thống quản lý động vật.
Thương mại song phương ngày càng gia tăng. Năm 2022, tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu của Việt Nam với Israel đạt hơn 2 tỉ đô la, tăng 18% so với năm 2021,
theo số liệu được báo chí trích dẫn. Thặng dư thương mại nghiêng hẳn về phía Việt
Nam, Israel thâm hụt thương mại hơn 1 tỉ đô la. Israel chủ yếu xuất sang Việt
Nam đồ điện tử, phân bón. Việt Nam xuất sang Israel hải sản, giầy dép, điện thoại
di dộng. Israel là một trong 16 nước trên thế giới ký Hiệp định Thương mại Tự
do với Việt Nam. Về phần mình, Việt Nam muốn tăng cường cơ sở sản xuất của nền
kinh tế do muốn tìm cách giảm bớt phụ thuộc vào Trung Quốc.
Lĩnh vực quốc phòng cũng là một mục tiêu khác trong hợp tác với Israel.
Trung Quốc không gây lo ngại đến mức như Nga bởi vì kể từ khi xảy ra xung đột
Nga-Ukraina, nhưng có lẽ trước cả lúc đó, Việt Nam đã tìm cách thoát khỏi các mối
liên kết gần như độc quyền, đặc biệt trong lĩnh vực quân sự. Nga là nhà cung cấp
vũ khí và khí tài chính cho Việt Nam. Để đa dạng hóa nguồn cung, Việt Nam đã hướng
đến Israel, đặc biệt là để bù đắp thiếu hụt kể từ khi xảy ra chiến tranh
Ukraina, ví dụ mua các loại tên lửa địa đối không Spyder. Israel cũng bán cho
Hà Nội các hệ thống giám sát và tình báo.
Có thể thấy Israel - nằm trong số 10 nhà xuất khẩu vũ khí hàng đầu thế giới
- hướng tới Việt Nam, nước trở thành một trong những khách hàng chính của Nhà
nước Do Thái từ nhiều năm qua. Đặc biệt là từ những năm 2010, Việt Nam trở
thành một trong những thị trường đầu ra chính cho ngành công nghiệp quốc phòng
Israel, với tổng trị giá hợp đồng lên tới 1,5 tỉ đô la trong suốt thập niên
2010. Đây là một chuyển biến mới, Israel trở thành một trong những đối tác bán
vũ khí quan trọng cho Việt Nam. Điều này cũng đặt ra vấn đề cạnh tranh cho
Pháp, nước cũng tìm chỗ đứng trong lĩnh vực này, cũng như với Hoa Kỳ, quốc gia
cũng muốn ký nhiều hợp đồng quy mô hơn với Việt Nam, trong bối cảnh căng thẳng
với Trung Quốc và tận dụng quan ngại của Hà Nội trong việc đa dạng hóa đối tác
kinh tế và quân sự.
*
RFI : Song
song đó, chúng ta cũng thấy Việt Nam duy trì mối quan hệ tốt với Palestine, dù
không phát triển hẳn như với Israel trong những năm gần đây !
GS
Pierre Journoud : Tôi cho là mối quan hệ Việt Nam-Palestine vẫn
chặt chẽ về chính trị nhưng không vững mạnh về kinh tế như với Israel. Điều này
dễ hiểu vì sự phát triển kinh tế giữa Israel và Palestine chênh lệch nhau.
Việt Nam và Palestine thiết lập quan hệ chính trị ngay năm 1968 vào lúc đỉnh
điểm chiến tranh Việt Nam với cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Tôi thấy là gần đây
báo chí cũng nhắc đến sự kiện Tết Mậu Thân khi nói đến vụ tấn công bất ngờ của
Hamas, cho dù sự liên tưởng đó là khiên cưỡng. Nhưng điều thú vị là trong kí ức
tập thể, khi có một vụ tấn công hay phản công bất ngờ, người ta lập tức liên tưởng
đến sự kiện Tết 1968, tiếp theo là cuộc phản công với sức hủy diệt mà mọi người
dường như đã quên lãng. Cần phải nhắc lại rằng Tổ Chức Giải Phóng Palestine
(PLO), ra đời năm 1967 ngay sau Cuộc chiến Sáu ngày, đã đặt văn phòng ở Việt
Nam năm 1976.
Về phía Việt Nam, ngay sau khi thống nhất đất nước năm 1975, đã trở thành
một trong những Nhà nước đầu tiên công nhận Nhà nước Palestine và thiết lập
quan hệ ngoại giao ngày 19/11/1988, ngay sau khi Palestine tuyên bố độc lập. Kể
từ đó, Hà Nội luôn ủng hộ Palestine trong tiến trình hội nhập trong vùng và quốc
tế. Ví dụ, năm 2012, Việt Nam ủng hộ nghị quyết cho phép Palestine được trao tư
cách quan sát viên tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, tiếp theo là ủng hộ đơn xin
gia nhập nhiều tổ chức quốc tế khác của Palestine, như UNESCO, Interpol…
Cũng trong thời điểm đó, cựu tổng thống Yasser Arafat công du Việt Nam
khoảng 10 lần cùng với nhiều thành viên của tổ chức PLO, lần cuối cùng là vào
năm 2001. Người kế nhiệm Mahmoud Abbas cũng công du Việt Nam ngày 24/05/2010.
Theo bình luận của báo chí thời đó, hai bên nêu những triển vọng hợp tác trong
nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Tôi không nghiên cứu
chi tiết vấn đề này nhưng dường như những thỏa thuận đó đã không tạo được những
trao đổi lớn giữa hai nước.
Một điều khá thú vị là vào tháng 05/2023, Việt Nam và Palestine đã ký ở
Hà Nội một Biên bản ghi nhớ (MOU) trong lĩnh vực phòng chống và kiểm tra tội
pháp xuyên biên giới, nhân chuyến công du của bộ trưởng Nội Vụ Palestine Ziad
Hab Al-Rih. Trong buổi làm việc với bộ trưởng Công An Tô Lâm, cả hai bày tỏ
mong muốn tăng cường hợp tác an ninh và trao đổi trong lĩnh vực này. Nhưng nhìn
chung, hợp tác giữa hai nước tiến triển chậm, rất khiêm tốn trong lĩnh vực
thương mại. Có thể thấy phát biểu của mỗi bên đều kêu gọi thúc đẩy hợp tác là dấu
hiệu cho thấy mối quan hệ không được phát triển mạnh, dù có tiềm năng.
Mối quan hệ này làm tôi liên tưởng tới quan hệ giữa Việt Nam và Algérie.
Đó là mối quan hệ đoàn kết lịch sử được hình thành từ cuộc đấu tranh chung, trước
tiên là chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, sau đó là chống đế quốc
Mỹ. Việt Nam thành “ngôi sao dẫn đường”, theo cách nói của nhà viết tiểu luận
Frantz Fanon vì kháng chiến chống lại “cỗ xe ủi” Mỹ. Tất cả các tổ chức đấu
tranh chống một lực lượng chiếm đóng thời đó, trong đó có Tổ Chức Giải Phóng
Palestine của Yasser Arafat trong nửa sau thập niên 1960 - đầu những năm 1970,
đều tỏ lòng ngưỡng mộ Việt Nam.
Sau Chiến tranh Sáu ngày, tổ chức PLO đấu tranh chống Israel chiếm các
vùng lãnh thổ không nằm trong phân định ban đầu được thông qua ở Liên Hiệp Quốc
năm 1948. Điều thú vị là trong Cuộc chiến Sáu ngày này có sự tương đồng giữa
chiến tranh Việt Nam và xung đột Israel-Ả Rập. Như tên gọi cho thấy cuộc chiến
diễn ra ngắn ngày nhưng là một bước ngoặt. Đây cũng là một bước ngoặt đối với
Pháp, vì tướng Charles de Gaulle, người lên án Mỹ năm 1966 can thiệp vào Việt
Nam, đã chỉ trích Nhà nước Israel vi phạm luật pháp quốc tế khi chiếm đóng phi
pháp các vùng đất của Palestine. Một chuyện khác có thể bị quên, đó là ngay sau
khi Chiến tranh Sáu ngày kết thúc, một loạt đàm phán, hoàn toàn bí mật, do Pháp
làm trung gian đã mở đường cho các cuộc đàm phán Mỹ-Việt tại Paris năm 1968. Có
thể thấy sự trùng hợp ngẫu nhiên của lịch sử trở lại với thực tế hiện nay.
Cuối cùng, tôi cho rằng có thể thoát khỏi cuộc khủng hoảng
Israel-Palestine qua con đường đàm phán. Tôi nghĩ là Việt Nam có thể đóng một
vai trò nào đó nhờ vào kinh nghiệm chiến tranh, cũng như kinh nghiệm đàm phán
như tôi nêu ở trên. Với những kinh nghiệm đó, ngành ngoại giao Việt Nam có thể
đóng một vai trò như họ vẫn mong muốn trong tiến trình hòa bình lâu dài ở Trung
Đông, đặc biệt là trong cuộc xung đột Israel-Palestine hiện nay, được coi là
kéo dài nhất và đau đớn nhất kể từ Thế Chiến II.
*
RFI
Tiếng Việt xin trân thành cảm ơn giáo sư lịch sử đương đại Pierre Journoud, Đại
học Paul Valéry - Montpellier 3.
-----------------------------
Các nội
dung liên quan
TẠP CHÍ VIỆT NAM
Việt
Nam gia tăng hợp tác quân sự với Israel nhằm làm chủ công nghệ quốc phòng
VIETNAM - ISRAEL
Việt
Nam - Israel tăng cường quan hệ kinh tế
VIỆT NAM - ISRAEL
Lần
đầu tiên, tổng thống Israel thăm Việt Nam
No comments:
Post a Comment