Mỹ
có khả năng kềm hãm tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông ?
Thanh Hà - RFI
Đăng ngày: 01/12/2023 - 14:14
Cuối tháng 11/2023, Hoa Kỳ và Trung Quốc đổ lỗi cho
nhau « khuấy động tình hình ở Biển Đông » sau vụ tàu khu trục Mỹ USS
Hopper có trang bị tên lửa dẫn đường hoạt động gần quần đảo Hoàng Sa. Bắc Kinh
lên án Mỹ « xâm nhập hải phận » của Trung Quốc. Washington khẳng định
quyền tự do lưu thông trên biển.
Tàu khu trục USS Hopper. Ảnh minh họa
do Hạm Đội 7 của Mỹ cung cấp. NAVY NEWS PHOTO FILES/AFP/File
RFI Việt ngữ xin giới thiệu bài phỏng vấn giáo sư Barthélémy Courmont
–Đại Học Công Giáo Lille, giám đốc nghiên cứu thuộc Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến
Lược IRIS của Pháp.
Trung Quốc không một mình một chợ
Trả lời phỏng vấn tạp chí Diplomatie số tháng 11-12/2023 đặc biệt về Biển
Đông, giáo sư Courmont phân tích về chiến lược của Hoa Kỳ trong vùng biển
này.
Về câu hỏi trước ảnh hưởng ngày càng lớn và những đòi hỏi chủ quyền của
Bắc Kinh ở Biển Đông, đâu là quan điểm của Mỹ đối với vùng biển này, ông
Barthélémy Courmont trả lời :
« Quan
điểm chính thức của Washington (…) luôn là bảo đảm một vùng biển tự do và rộng
mở thiết yếu trong các hoạt động giao thương. Lập trường này phản ánh quan ngại
chính đáng của Mỹ và được nhiều cường quốc khác chia sẻ, là nếu an ninh trong
khu vực bị xuống cấp, thì sẽ tác động đến kinh tế toàn cầu. Lập trường đó cũng
thể hiện quyết tâm đối phó với những tham vọng của Bắc Kinh muốn đặt thiên hạ
trước chuyện đã rồi bằng cách tăng cường khả năng (quân sự) và sự hiện diện, đặt
các nước chung quanh - như Việt Nam hay Philippines vào thế thủ. Cuối cùng,
(trên chính trường Mỹ) hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa đương đầu với nhau trên nhiều
chủ đề, nhưng riêng liên quan đến Trung Quốc thì họ lại có cùng quan điểm. Mỗi
bên đều xem Bắc Kinh là thách thức lớn nhất đang đặt ra cho Hoa Kỳ (…) Vì
lý do này mà tàu chiến của Mỹ thường xuyên hiện diện trong khu vực để nhắc nhở
Trung Quốc không ‘một mình một chợ’ ».
Chiến lược của Mỹ ở Biển Đông ?
Thái Bình Dương từ sau Thế Chiến Thứ Hai còn được gọi là « ao nhà
của Mỹ »bởi hay lý do một là sau khi Nhật Bản đầu hàng thì Hoa Kỳ tăng cường
hiện diện với khu vự này trên ba phương diện : kinh tế, ngoại giao và chiến lược.
Đây đồng thời cũng là nguyện vọng của các quốc gia trong vùng muốn ngả vào vòng
tay của Washington. Song do tác động từ chiến tranh Việt Nam, phải đợi khi Chiến
tranh Lạnh cáo chung, thì Mỹ mới quan tâm trở lại đến khu vực Đông Nam Á, khẳng
định lại ảnh hưởng kinh tế của Hoa Kỳ trong vùng mãi cho đến tận 1997, thời điểm
nổ ra khủng hoảng tài chính Á Châu.
Thế rồi cũng vì căng thẳng âm ỉ với Bắc Kinh, nước Mỹ dưới thời tổng thống
Obama (2009-2016) đã « xoay trục sang châu Á, vồ vập với Philippines và
Việt Nam » vào lúc mà một số nước trong vùng đã bắt đầu thận trọng trước
những tham vọng của Bắc Kinh ở Biển Đông. Chỉ tiếc là « chiến
lược của Hoa Kỳ đã chỉ dừng lại ở hợp tác quân sự » nên không đủ sức tạo
dựng niềm tin giữa Washington với các đối tác Đông Nam Á. Một số đã do dự và
không dám quay lưng lại với đối tác thương mại chính là Trung Quốc.
Mỹ có những ưu thế mà Trung Quốc không có được
Theo giáo sư Courmont thuộc Viện IRIS, răn đe Trung Quốc mới là lý do
chính giải thích cho sự hiện diện của Hoa Kỳ ở Biển Đông. Vậy thì đâu là những
lợi thế và nhược điểm của Washington trong vùng biển này ?
« Xét
về mặt quân sự, lá chủ bài của Washington ở Biển Đông chính là những đối tác của
Hoa Kỳ trong khu vực. Điều đó thể hiện qua một số những căn cứ quân sự, những
cơ sở của Mỹ tại nhiều hải cảng. Đó là điều mà Bắc Kinh không có được. (….)
Thêm vào đấy là những căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Bắc Á như Nhật Bản, Hàn Quốc
và ở đảo Guam.
Trái lại
thế yếu của Washington thì gồm mức độ đáng tin cậy về sự dấn thân của Mỹ và từ
phía các đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực. Mỹ tham gia rồi đã rút khỏi hiệp định
tự do mậu dịch xuyên Thái Bình Dương TPP ; Lại cũng Washington rút khỏi
Afghanistan (…) Thế rồi đã không thông báo trước với các đối tác trong khu vực
khi thiết lập hợp tác quân sự với Anh và Úc - AUKUS ».
Những nước cờ riêng của mỗi đối tác châu Á
Cùng lúc mỗi đối tác Đông Nam Á của Hoa Kỳ đều « có những
chiến lược riêng ». Giáo sư Courmont đơn cử trường hợp của
Philippines : Manila lúc thì theo đuổi đường lối thân Mỹ lúc lại thân Bắc
Kinh. Nhưng quan trọng hơn cả theo chuyên gia Pháp này, thái độ chập chờn đó của
một số nước trong khu vực cho thấy « Trọng lượng kinh tế và ảnh
hưởng của Washington tại khu vực này đang bị thu hẹp lại ».
Vậy đó là điều đáng mừng hay đáng lo ? Ông Barthélémy Courmont
quan niệm thiên về một trong hai giả thuyết này đều không thỏa đáng.
Bởi trước hết, quyền lực tại Washington trong tay đảng Dân Chủ hay Cộng
Hòa cũng cho thấy là ảnh hưởng của Mỹ tại châu Á đang sụt giảm bởi Mỹ thiếu một
tầm nhìn chiến lược cho toàn khu vực. Nhưng bên cạnh đó thì các nước Đông Nam Á
vẫn có một sự hoài nghi, ngờ vực nào đó về đối tác Mỹ
Riêng liên quan « vị trí và vai trò của liên
minh » giữa Hoa Kỳ và Philippines, giám đốc nghiên cứu viện IRIS
tại Pháp nhận xét như sau : thứ nhất bang giao song phương đã trải qua nhiều « sóng
gió » đặc biệt là dưới thời nhà độc tài Ferdinand Marcos và quyền
lực tại Manila giờ đây đang được đặt trong tay con trai ông là tổng thống
Marcos Jr.
Thế rồi bang giao đã được sưởi ấm dưới chính quyền Obama trước khi lại
bị tổng thống Rodrigo Duterte thách thức khi ông này lên cầm quyền. Từ 2022 tổng
thống Ferdinand Marcos Jr. thể hiện lập trường thân Mỹ.
Thứ hai, mọi người không nên quên rằng, « tương tự như nhiều quốc
gia khác trong khu vực » Philippines tìm cách hưởng lợi trước xung khắc Mỹ-Trung.
Dưới thời nào đi chăng nữa, Manila cũng tránh phải chọn phe.
Về phía Trung Quốc, giáo sư Barthélémy Courmont không loại trừ khả năng
Bắc Kinh làm căng với Philippines để đo lường mức độ thiết tha của Mỹ với đồng
minh thân thiết này, và qua đó là với cả châu Á...
Không xa Philippines, Đài Loan cũng đang chú ý theo dõi phản ứng của
Hoa Kỳ…
Mỹ, lực bất tòng tâm
Mỹ có còn khả năng kềm hãm những tham vọng và đà bành trướng của Trung
Quốc ở Biển Đông hay không ? Chuyên gia Pháp cũng khá thận trọng trong phần
phân tích.
« Về
mặt quân sự, Hoa Kỳ vẫn giữ được khoảng cách quan trọng ở phía trước và lợi thế
đó được củng cố thêm nhờ những mối đối tác chiến lược Washington đã mở rộng với
nhiều quốc gia trong vùng. Đành là Trung Quốc đã tăng tốc cải thiện khả năng
quân sự nhưng cần thêm vài thập niên nữa Bắc Kinh mới giành được thế thượng
phong (…) Nhưng có một thay đổi ở đây : đó là khả năng của Trung Quốc để
gây áp lực đối với các nước châu Á mà từ trước đến nay vẫn bị coi là 'bướng bỉnh'.
Về kinh
tế mặc dù Trung Quốc đang gặp khó khăn, nhưng Bắc Kinh đã lấn lướt tất cả các đối
tác Đông Nam Á. Hoa Kỳ thì không đủ sức để cưỡng lại ảnh hưởng đó của Trung Quốc
trong vùng. Chính quyền Biden tháng 5/2022 khởi xướng Khuôn Khổ Kinh Tế Ấn Độ-Thái
Bình Dương IPEF để làm đối trọng với dự án Một Vành Đai Một Con Đường BRI của
Trung Quốc. Nhưng đầu tư của Mỹ trong khu vực không thấm vào đâu so với những
thay đổi về mặt kinh tế -và đôi khi là cả về mặt xã hội, mà các khoản đầu tư của
Trung Quốc đã mang lại. (…) Tuy nhiên về ảnh hưởng ngoại giao và hình ảnh, thì
Mỹ có sức thu hút lớn hơn so với Trung Quốc (…) quyền lực mềm của Mỹ lôi cuốn
hơn (…) » .
Nguy cơ xung đột ?
Sự hiện diện của Mỹ ở Đông Nam Á trên biển, trên không đã nhiều lần
xuýt gây ra sự cố với quân đội Trung Quốc. Có khả năng tình hình vượt ngoài tầm
kiểm soát hay không ?
Theo chuyên gia Pháp Barthélémy Courmont, nguy cơ căng thẳng leo thang
là có thực khi nhìn vào « chiều sâu » mối hiềm khích giữa hai cường quốc
này. Những sự cố như hồi tháng 5/2023 khi máy bay của Hoa Kỳ và Trung Quốc áp
sát vào nhau, sẽ thường xuyên xảy ra chung quanh khu vực eo biển Đài Loan
và ở Biển Đông.
Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là Mỹ và Trung Quốc sẽ lao vào một cuộc
xung đột ở quy mô lớn bởi hai quốc gia này « bị gắn chặt vào nhau
và cho dù đang trong thế cạnh tranh về nhiều mặt, nhưng cả tại Washington lẫn Bắc
Kinh mỗi bên đều ý thức được là phải duy trì đối thoại ».
Washington và Bắc Kinh cùng có nhu cầu chứng minh với công luận trong
nước là không « nhượng bộ đối phương một ly tấc nào (…) Trung
Quốc hô hào chấm dứt mô hình xoay quanh thế giới phương Tây chẳng qua là để huy
động và thuyết phục người dân về tính chính đáng của đảng Cộng Sản, đồng thời
gây sức ép với các nước phương Tây.
Về phía
Hoa Kỳ chính sách Ấn Độ-Thái Bình Dương, cũng tương tự như chủ trương xoay trục
sang châu Á của tổng thống Obama hay các cuộc chiến tranh thương mại dưới thời
chính quyền ông Trump, cũng chỉ nhằm mục đích nêu nêu bật mối đe dọa Trung Quốc
và qua đó là để tìm cách đối phó ».
No comments:
Post a Comment