Lê Nguyễn: Cách dạy và học Sử cần
được thay đổi sâu sắc trên tinh thần phi chính trị hóa
Thứ
Năm, 08/17/2023 - 12:09 — songchi
https://www.rfavietnam.com/node/7738
Cuộc
phỏng vấn được thực hiện với ông Lê Nguyễn, nhà báo, nhà nghiên cứu lịch sử độc
lập, cựu Phụ tá Tỉnh trưởng đặc trách Phát triển Kinh tế dưới chế độ VNCH, hiện
đang cư ngụ tại Sài Gòn.
*
*Thưa
anh, trưởng thành ở Miền Nam trước năm 1975, với những kinh nghiệm bản thân về
nền giáo dục VNCH, anh có thể nêu lên những nhận xét, đánh giá khái quát của
anh về cách dạy và học môn Sử hồi đó ở bậc tiểu học, trung học, đại học. Và xin
anh so sánh với bây giờ, từ chương trình học và thi cử, thái độ tiếp thu của học
sinh, yếu tố chính trị trong chương trình…?
.
Nhà
nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn:
Với
tư cách một người được rèn luyện trong nền giáo dục miền Nam trước năm 1975,
đồng thời là người quan sát thường xuyên nền giáo dục xã hội chủ nghĩa (XHCN)
từ gần 50 năm qua, tôi xin trả lời về tình trạng dạy và học môn Sử tại miền Nam
trước 1975 và tại Việt Nam hiện nay.
Có
lẽ Song Chi cũng như nhiều người sẽ đồng ý với tôi rằng sự khác biệt lớn nhất
giữa giáo dục lịch Sử ở hai miền Nam và Bắc, vào hai thời điểm khác nhau, là
yếu tố chính trị. Trong khi tại miền Nam trước 1975, hoàn toàn không có sự lồng
ghép yếu tố chính trị vào chương trình dạy và học môn Sử thì tại miền Bắc trước
1975, cũng như tại cả nước hiện nay, yếu tố này chiếm một tỉ lệ rất đáng kể
trong chương trình giáo dục hàng năm.
Nói
đến giáo dục tại miền Nam trước 1975, gần đây người ta nhắc nhiều đến ý niệm
khai phóng. Đó là điều có thật. Trong suốt thời gian theo học các bậc Tiểu học,
Trung học và Đại học, các học sinh, sinh viên được tự do tiếp cận với các nền
văn hóa, các trào lưu tư tưởng trên thế giới, mà không hề bị lèo lái theo một
xu hướng chính trị nào.
Vào
giữa thập niên 1960, khi cuộc chiến Nam-Bắc đã bước vào giai đoạn khốc liệt,
chính quyền miền Nam vẫn để cho các sách tìm hiểu về chủ nghĩa Marx-Lénine được
phát hành rộng rãi trong công chúng. Bản thân tôi từng là độc giả của những
quyển sách loại này, như Tìm hiểu triết học của Karl Marx của
Trần Văn Toàn (Nxb Nam Sơn, 1965), Hành trình trí thức của Karl
Marx của Nguyễn Văn Trung (Nxb Nam Sơn, 1965), bài viết nhan đề “Cộng
sản, người anh em của tôi”, của một cây bút Công giáo, in trên tạp chí Đất
Nước .... Những văn hóa phẩm đó không phải là tài liệu tuyên truyền nhằm cổ
động hay chống lại chủ nghĩa Marx-Lenine, mà đơn thuần là những tài liệu có
tính học thuật, giúp người đọc bổ sung vào kiến thức sẵn có của mình.
Trong
khi đó, tại miền Bắc trước 1975, người dạy và người học Sử bị gò ép trong một
khuôn khổ chật hẹp về mặt học thuật pha lẩn các yếu tố chính trị, nhiều sự kiện
lịch sử bị “uốn nắn” theo chiều hướng nhằm khêu gợi trong các tầng lớp thanh
thiếu niên ở miền Bắc lòng yêu nước cuồng nhiệt, đồng thời kích động sự căm thù
của họ đối với chính quyền đang tồn tại ở miền Nam.
Thực
tế cho thấy hình thức giáo dục đó đạt được hiệu quả nhất định khi cuộc nội
chiến đang tiếp diễn. Nhiều thanh thiếu niên miền Bắc đã lăn xả vào cuộc chiến
với “lý tưởng” giải thoát đồng bào miền Nam “khỏi gông cùm của đế quốc Mỹ và
chế độ Mỹ-ngụy”. Song sau năm 1975, khi chế độ đối nghịch không còn nữa, giang
sơn đã nằm trong tay một chính quyền duy nhất, lẽ ra cách dạy và học Sử cũ cần
được thay đổi cho phù hợp với hiện thực của xã hội thì lại vẫn tiếp tục kéo
dài, vẫn nhắc lại sự căm thù cũ, với những nhân vật hư cấu không còn tác dụng
gì đối với cuộc sống đang đòi hỏi sự trung thực, sự hòa hợp của lòng người.
Chương
trình giáo dục môn Sử hiện nay không theo kịp đà phát triển của nhận thức chung
trong xã hội, đặt học sinh trước ngả ba đường, trong sự mâu thuẫn và nghịch lý
giữa nhiều sự thực lịch sử được truyền bá trong xã hội với những kiến thức giáo
điều, lạc hậu họ được dạy dỗ ở học đường. Gần đây, học sinh năm cuối bậc trung
học được dạy Sử theo cách thức như để trở thành những nhà chiến lược quân sự,
phải học thuộc từng chi tiết các trận đánh giữa quân đội Việt và Pháp vào cuối
thập niên 1940, đầu thập niên 1950, về quân số các bên, về ngày tháng, địa điểm
xảy ra trận chiến, về thương vong của cả hai bên ... Những con số khô khan làm
lùng bùng những cái đầu thơ trẻ đã dẫn đến tình trạng chán ngán chung của học
sinh đối với môn Sử, hậu quả là khi môn thi Sử trở thành môn nhiệm ý thì có
trường thi chỉ có mỗi một thí sinh thi môn này...
Hiện
tượng đáng buồn đó đã không được các nhà giáo dục lưu tâm, có lúc còn chủ
trương đưa môn Sử thành môn tự chọn, hạ thấp tính cần thiết và tầm quan trọng
của một môn học mà hầu hết các nước trên thế giới luôn quan tâm rèn luyện cho
thanh thiếu niên nước họ.
Những
yếu tố trình bày trên đã góp phần giải thích cho tình trạng chán học môn Lịch
Sử hiện nay.
*
*Trước
1975, và cho đến gần đây, theo quan điểm của các nhà nghiên cứu và giáo dục
XHCN, chế độ phong kiến là thối nát, nhà Nguyễn ươn hèn, bạc nhược, vua Gia
Long “cõng rắn cắn gà nhà…” v.v…bỏ qua tất cả công lao mở mang bờ cõi, xây dựng
đất nước của nhà Nguyễn. Và còn nhiều nhân vật, sự kiện khác nữa cũng bị đánh
giá cực đoan và thiếu khách quan như vậy. Thưa anh nghĩ gì về điều này?
.
Nhà
nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn:
Trong
suốt những thập niên 1960, 1970, có lẽ môn học Lịch Sử tại miền Bắc đã dựa vào
những nét cơ bản được xác định trong các tài liệu chính thống do nhà nước ban
hành, tiêu biểu là bộ “Lịch Sử Việt Nam” do Ủy Ban Khoa học- Xã hội Việt Nam
soạn thảo, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội phát hành tại Hà Nội năm 1971, trong
đó, những dòng trích dưới đây có thể được xem là tuyên ngôn về triều Nguyễn:
“Triều
Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng một cuộc chiến tranh
phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược của người nước ngoài. Gia Long lên làm vua
lập nên triều Nguyễn sau khi đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của nông dân ...
Triều Nguyễn là vương triều tối phản động ...Bản chất cực kỳ phản động của chế
độ nhà Nguyễn bộc lộ rõ ngay từ đầu qua những hành động khủng bố, trả thù vô
cùng đê hèn của Nguyễn Ánh đối với các lãnh tụ nông dân và những người thuộc
phái Tây Sơn kể cả phụ nữ và trẻ em... "Chính quyển nhà Nguyễn hoàn toàn
đối lập với nhân dân và dân tộc….” (hết trích).
Trong
cuộc chiến kéo dài vào những năm 1954 -1975, có thể các nhà Sử học XHCN thời ấy
xem chính quyền miền Nam từng đặt dưới quyền lãnh đạo của Quốc trưởng Bảo Đại,
vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn, của Thủ tướng Ngô Đình Diệm, cựu Thượng
thư Bộ Lại triều Nguyễn, là sự kế thừa của vương triều Nguyễn, đả phá, lên
án triều Nguyễn là cách chống lại chế độ kế thừa đang tồn tại ở miền Nam.
Có
thể đưa ra một nguyên nhân khác nữa: những người thực hiện cuộc cách mạng tại
miền Bắc tự coi phong trào nổi dậy của mình từ đầu thập niên 1930 là hiện thân,
là sự tiếp nối của phong trào Tây Sơn, vốn là tổ chức quân sự không đội trời
chung với nhà Nguyễn.
Thực
tế cho thấy, quan điểm chính thức về nhà Nguyễn thể hiện trong bộ sách Lịch Sử
phát hành tại miền Bắc vào đầu thập niên 1970 và các sách giáo khoa Lịch Sử
được biên soạn trên tinh thần đó đã dẫn đến những hệ quả đáng tiếc trong nhận
thức của giới học sinh, sinh viên và công chúng tiếp cận với lịch sử nhà
Nguyễn. Bản thân tôi từng nghe hậu duệ của một vị đại thần triều Nguyễn, giữa
chỗ đông người, đã gọi vua Tự Đức là “thằng”; mặt khác, nhiều độc giả hẳn biết
chuyện một cận thần cũ của vua Bảo Đại viết sách về triều Nguyễn đã đơm đặt
điều này, điều nọ, bêu xấu triều Nguyễn một cách hèn hạ như thế nào để lấy lòng
chủ mới ….
Để
củng cố cho chủ trương xem nhà Nguyễn là thế lực “thối nát, tối phản động”,
người ta đã viện dẫn nhiều luận cứ, trong đó nổi bật là hai khái niệm “bế quan
tỏa cảng” và “cõng rắn cắn gà nhà”. Chuyện bế quan tỏa cảng vẫn còn có nhiều
điều cần được làm rõ, riêng chuyện “cõng rắn cắn gà nhà” chứng tỏ một hình thức
“nói lấy được”. Người ta khoác tội cõng rắn cho chúa Nguyễn Ánh dựa vào hai sự
kiện:
1)
Việc chúa Nguyễn Sử dụng dưới trướng của ông khoảng một chục cựu sĩ quan,
chuyên viên người Pháp hoạt động độc lập, không dính líu gì với chính quyền
Pháp và không hề giao cho họ một chức vụ quan trọng nào trong bộ máy chính trị
và quân sự của ông. Đến thập niên 1800, sau khi chúa Nguyễn thống nhất giang
sơn, phần lớn số người này đã rời Việt Nam, trở về nước.
2)
Việc Nguyễn Ánh tiếp nhận hai vạn quân Xiêm tăng cường trong đạo quân còn suy
yếu của ông, đặt lực lượng ngoại viện này dưới sự chỉ huy thống nhất của tướng
Việt Châu Văn Tiếp. Đây là kết quả sự thỏa thuận của vua Xiêm và chúa Nguyễn,
căn cứ vào sự cam kết “hoạn nạn thì cứu nhau” giữa đại thần Nguyễn Hữu Thụy
(Thoại), đại diện chính quyền nhà Nguyễn và đại diện chính quyền Xiêm La vào
năm 1783 (Đại Nam thực lục – Tập 1 – NXB Giáo Dục 2002, trang 221).
Không
thể có cái gọi là “cõng rắn cắn gà nhà” với một nhúm ngoại binh một hai chục
người, cũng không thể gọi một lưc lượng ngoại viện là xâm lăng, khi người đứng
đầu hai chính quyền Việt và Xiêm thỏa thuận hổ trợ lẫn nhau khi hoạn nạn.
Có
lúc, để ý nghĩa của sự lên án nhà Nguyễn “cõng rắn cắn gà nhà” được trọn vẹn
hơn, người ta đã liên kết sự hiện diện của nhúm người Pháp trên (vào cuối thế
kỷ 19) với việc quân Pháp đánh chiếm Gia Định vào thập niên 1860, mà không hề
lý tới việc người Pháp cuối cùng trong số trên đã rời hẳn Việt Nam từ năm 1824,
và trong suốt 36 năm sau đó, không hề có người Pháp nào trong triều đình Huế
cả.
Với
việc triều đình Huế để mất dần đất nước vào tay thực dân Pháp vào nửa sau thế
kỷ 19, người ta lấy thắng lợi của các phong trào giải phóng dân tộc vào thế kỷ
20, với sự hỗ trợ về tinh thần và vật chất của các phong trào quốc tế, làm
chuẩn mực để lên án nhà Nguyễn, mà không hề lý tới việc có sự cách biệt quá lớn
về vũ khí, kỹ thuật quân sự giữa một đế quốc sừng sỏ phương Tây (Pháp) và một
đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị cô lập về mọi mặt ở phương Đông như Việt Nam.
Khi lên án nhà Nguyễn để mất nước, họ cũng vô tình hay cố ý quên rằng, không
riêng gì Việt Nam, Lào và Campuchia ở Đông Nam Á, nhiều nước ở Bắc Phi như
Algérie, Tunisie, Maroc..., ở Tây Phi như Sénégal, Bali, Côte d’Ivoire… cũng
từng là mồi ngon của đế quốc Pháp, nhiều nước như Ấn Độ, Miến Điện, Singapore,
Malacca ...cũng từng là nạn nhân của đế quốc Anh.
Khuynh
hướng chung của giới Sử học XHCN những thập niên 1960-1970 là lấy hiện tại làm
chuẩn mực để phê phán quá khứ, tạo ra những khuôn mẫu nhất định, theo một định
hướng nhất định và nhào nặn mọi yếu tố lịch sử vào trong những khuôn mẫu đó,
theo những định hướng đó.
Chính
trong chiều hướng đánh giá lịch sử theo một khuôn mẫu nhất định này mà có một
thời gian dài, những mặt tích cực của vua chúa nhà Nguyễn trong việc mở mang bờ
cõi, phát triển xã hội, giao dịch với các lân bang (Lào, Chân Lạp, Xiêm la,
Miến Điện ...) trên thế mạnh, đã không hề được nói đến.
*
*Cuộc
“Tọa đàm về các chúa Nguyễn–Những dấu ấn lịch sử và văn hoá trên vùng đất
Phương Nam” với sự tham dự của các diễn giả, trong đó anh đảm nhận phần nói về
Nguyễn Ánh –Tây Sơn và phần nhà Nguyễn – Pháp, do Hội đồng Nguyễn Phước tộc tổ
chức gần đây và quay video đưa lên YouTube, phải nói rất thú vị, bổ ích. Thưa
anh những cuộc tọa đàm “nói lại cho rõ” như vậy có hay được các tổ chức, nhóm
tư nhân thực hiện không, hiệu quả tới đâu? Còn về phía nhà nước, cho tới nay
quan điểm “chính thống” về nhà Nguyễn, các nhân vật lịch sử như Phan Thanh
Giản, Nguyễn Tri Phương, Trương Vĩnh Ký (Petrus Ký) v.v…có chút gì thay đổi
không thưa anh?
.
Nhà
nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn:
Theo
những gì đã xảy ra cách nay gần nửa thế kỷ, chúng ta thấy rằng cái nhìn cực
đoan về lịch sử đã được thể hiện ngay từ sau ngày 30.4.1975, khi người ta gỡ bỏ
hết các bảng tên đường mang danh các công thần triều Nguyễn như Lê Văn Duyệt,
Phan Thanh Giản, Trương Tấn Bửu, Võ Di Nguy, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu ...., xóa
bỏ tên các trường học kỳ cựu nhất của Sài Gòn và một số tỉnh như Petrus Ký, Gia
Long, Phan Thanh Giản, Võ Tánh …
Đề
cập đến các buổi tọa đàm “nói lại cho rõ”, ít ai quên được cuộc hội thảo quy mô
về nhà Nguyễn do những người có trách nhiệm cao nhất tại Hội Khoa học Lịch Sử
Việt Nam tổ chức ở Thanh Hóa vào năm 2008. Cuộc hội thảo thổi một luồng gió mới
vào không khí ngột ngạt vẫn còn bao trùm lãnh vực nghiên cứu, dạy và học môn
Lịch Sử, song không lâu sau đó, những người tổ chức cuộc hội thảo, trong đó có
nhà Sử học Phan Huy Lê, đã hứng chịu không ít búa rìu tới tấp của những người
còn chủ trương bảo tồn các định kiến cũ. Chính những điều đáng tiếc như thế đã
khiến những ai có tâm huyết với lịch sử chùn bước, tìm cách thể hiện quan điểm
của mình dưới những hình thức âm thầm hơn, “tế nhị” hơn.
Gần
đây, có những dấu hiệu cho thấy cái nhìn đối với lịch sử thời nhà Nguyễn của
các cơ quan, giới chức có trách nhiệm về văn hóa-lịch sử đã có cởi mở hơn, công
tâm hơn, chẳng hạn vào năm 2019, bản dịch tác phẩm The Tây Sơn
uprising (Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn) của George Dutton, giáo sư Sử
học trường UCLA (Đại học Los Angeles, Mỹ), đã được phép phát hành nhằm phổ biến
khối tư liệu phong phú và nhiều quan điểm khách quan về nhà Tây Sơn trong giai
đoạn diễn ra cuộc nội chiến những năm 1771-1802. Bản dịch tác phẩm được in đến
lần thứ ba chỉ trong vòng 2 tháng cho thấy sự hưởng ứng nồng nhiệt của công
chúng yêu lịch sử, đồng thời phản ánh tính cởi mở trong quan điểm của các giới
chức có trách nhiệm về văn hóa-lịch sử.
Tất
nhiên, sự cởi mở, phóng khoáng như vừa kể trên chưa thể gọi là đầy đủ, thỏa
đáng, trong một môi trường học thuật đòi hỏi sự cải tiến về nhận thức, sự xác
định lại những giá trị chưa được công nhận trong một thời gian dài. Những con
đường mang tên các công thần triều Nguyễn chưa được phục hồi tên cũ như là dấu
hiệu của sự sửa sai, nhìn nhận lại lịch sử, việc dạy và học môn Lịch Sử vẫn
chưa có sự thay đổi nào đáng kể, vẫn là những kiến thức đã được định hình từ
cách nay 5-7 mươi năm, khiến người học thường bị hụt hẫng khi so chiếu những
hiểu biết của họ tại học đường và những gì họ tiếp thu được trong đời sống, qua
mạng xã hội, qua sách báo phát hành trong thời gian gần đây.
Dù
sao, những chuyển biến về nhận thức các vấn đề lịch sử trong xã hội ngày nay
đang có chiều hướng đi lên, dẫu có chậm, điều này cho phép chúng ta hi vọng vào
những thay đổi, chuyển biến sâu sắc hơn, thực chất hơn, trong tương lai
*
*Về
nhà Tây Sơn, sự đánh giá dưới chế độ VNCH và chế độ XHCN hiện nay rất khác
nhau. Anh nhận thấy nội dung sự đánh giá của hai thời kỳ trước (tại miền Nam)
và sau 1975 khác nhau như thế nào, quan điểm riêng của anh ra sao về vấn đề
này?
.
Nhà
nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn:
Ở
miền Nam trước 1975, sự đánh giá về nhà Tây Sơn gần như hoàn toàn dựa vào tính
khách quan của lịch sử, song các hiểu biết về phong trào này từ giữa thập niên
1960 trở về trước vẫn còn khá phiến diện và thiếu sót. Phải chờ đến năm
1966, với sự ra đời của tập san Sử Địa do một số nhà nghiên cứu và sinh viên
khoa Sử trường Đại học sư phạm Sài Gòn thực hiện, và sự xuất hiện của tác
phẩm “Lịch Sử nội chiến ở Việt Nam từ năm 1771 đến 1802” của
Tạ Chí Đại Trường (1973) thì phong trào Tây Sơn mới được đánh giá đầy đủ và có
thực chất hơn.
Ở
miền Bắc, từ thập niên 1970 trở về trước, sự nhận định và đánh giá về nhà Tây
Sơn chủ yếu dựa vào hai yếu tố cốt lõi:
-
Tây Sơn là phong trào nông dân nổi lên đánh đổ nhà Nguyễn thối nát, chủ trương
mang lại cơm no áo ấm cho dân nghèo
-
Nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn là hai thực thể hoàn toàn đối nghịch nhau, một bên
tượng trưng cho tinh thần quật khởi, cho cách mạng xã hội, một bên là vương
quyền thối nát, phản động, đầy rẫy áp bức, bất công, cần được loại bỏ nhanh
chóng.
Ngày
nay, với những tư liệu và chứng lý mới, giới học thuật phủ nhận tính chất nông
dân của phong trào Tây Sơn, vì tổ chức này thiếu hẳn 3 yếu tố cơ bản của một
phong trào nông dân:
1)
Không được khởi xướng bởi người nông dân, chỉ là việc thực hiện tham vọng giành
chính quyền trong tay nhà Nguyễn của anh em nhà Tây Sơn, vốn chẳng phải là nông
dân.
2)
Trong việc khởi phát cuộc nổi dậy và suốt cuộc nội chiến, không có bóng dáng
người đại biểu nông dân nào trong bộ máy lãnh đạo của phong trào Tây Sơn.
3)
Mục tiêu tối hậu và duy nhất của phong trào Tây Sơn là giành lấy chính quyền,
không nhằm vào việc cải thiện đời sống của người nông dân. Dưới thời Tây Sơn,
người nông dân vẫn bị áp bức, bị bóc lột sức lao động, đời sống vẫn nghèo đói,
cơ cực, không khác chi dưới thời Lê-Trịnh hay thời các chúa Nguyễn, thậm chí có
thời điểm còn tệ hại hơn. Về điều này, giáo sư Sử học người Mỹ George Dutton,
tác giả quyền “The Tây Sơn uprising” (Cuộc nổi dậy của anh em
nhà Tây Sơn) đã phân tích khá tinh tế như sau:
“Người
nông dân thời kỳ Tây Sơn là những kẻ lót đường cho quân đội, là đối tượng của
sự lao dịch, là nguồn tiếp tế và nguồn lợi tức cho phong trào. Những người đàn
ông và đàn bà đó có thể nuôi ước vọng về một cuộc sống tốt hơn, điều này phản
ánh trong sự ủng hộ đầy vẻ lạc quan của họ khi nhìn thấy những biểu hiện sớm
sủa của cuộc nổi dậy, song những ước vọng đó sớm nhường chỗ cho một thực tế đầy
thất vọng và theo những chứng cứ khả dĩ nhất, ít có người nông dân nào nhìn
thấy một sự cải tiến đáng kể trong đời sống của họ phát xuất từ hành động của
nhà Tây Sơn” (George
Dutton, The Tây Sơn Uprising, University of Hawai’i Press,
Honolulu, 2006, tr. 121-122, LN dịch)
Nói
tóm lại, chúng ta nêu lên những mặt tích cực và tiêu cực của nhà Tây Sơn không
phải nhằm đánh đổ “thần tượng”, vì họ chưa bao giờ có thể là thần tượng, mà chỉ
nhằm trả họ về với thực chất của họ, với những mặt mạnh, mặt yếu, những cái
xấu, cái tốt hiển hiện của phong trào do họ khởi xướng. Tìm mọi cách triệt hạ
họ hay tôn xưng họ như thần thánh đều mang tính cực đoan và xa rời với thực tế
lịch sử.
*
*Có
phải vì nỗi niềm ưu tư khi thấy lịch sử được viết, được dạy một cách không
trung thực mà anh trở thành nhà nghiên cứu lịch sử độc lập, rất khác với ngành
nghề anh đã học tại Học viện Hành chánh trước kia, hay còn vì lý do gì khác?
Nhà
nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn:
Trong
mỗi con người đều có lòng yêu mến cội nguồn nơi mình sinh ra, và dù sống trong
hoàn cảnh nào cũng không thể quên đi cội nguồn đó. Trong thời gian đảm nhiệm
công việc của một viên chức hành chánh trước năm 1975, tôi có cơ duyên tiếp cận
được nhiều tư liệu do người Pháp để lại khi họ rút khỏi Việt Nam, và qua đó,
mình thu thập được nhiều kiến thức hữu ích về lịch sử cận đại của nước nhà.
Mặt
khác, sự khác biệt, thậm chí đối nghịch giữa những gì mình hiểu biết qua sách
vở, tài liệu, với những gì mà lịch sử “hiện đại” vạch ra cũng trở thành một
thách thức thú vị để mình có dịp nói lên quan điểm và những hiểu biết cá nhân,
nhằm giúp cho môi trường sử học ngày càng trong sáng, nhân bản hơn, các sự kiện
và nhân vật lịch sử được đánh giá khách quan và công tâm hơn….
Tất
nhiên, đó chỉ là mong ước, còn việc mình làm được đến đâu, có hiệu quả như thế
nào, thì lại là chuyện khác!
*
*Một
câu hỏi cuối cùng. Anh có những mong muốn, đề xuất gì về việc viết sách Sử cũng
như dạy và học Sử hiện tại?
Nhà
nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn:
Theo
tôi, trong nền giáo dục hiện tại, cần trang bị cho thế hệ trẻ những kiến thức lịch
sử theo ít nhất 3 tiêu chí: khách quan, trung thực và công bằng. Thiếu những
yếu tố cốt lõi đó, lịch sử chỉ là những câu chuyện đùa, những dối lừa, gạt gẫm,
khiến giới trẻ mất đi khả năng nhận thức đúng đắn nhiều sự kiện, nhân vật lịch
sử khác nhau.
-
Cách dạy và học môn Lịch Sử hiện nay cần được thay đổi sâu sắc trên tinh thần
phi chính trị hóa, bỏ đi những bài học xơ cứng, giáo điều, nêu bật những công
lao to lớn của tiền nhân, giúp giới trẻ biết nhận thức, trân trọng và yêu quý
những di sản do tiền nhân đã tạo ra bằng mồ hôi, máu và nước mắt. Các cuộc nội
chiến, dù là ở thời nào, cũng cần được nhắc lại với thái độ nhân văn, trong
tinh thần hòa hợp dân tộc, giảm đến mức tối thiểu tính kích động, chia rẽ và
hận thù. Có như thế, sách giáo khoa Lịch Sử mới góp phần sản sinh ra những thế
hệ người Việt sống có đạo lý, biết hòa hợp với nhau trong tinh thần dân tộc,
biết yêu quý và bảo tồn di sản do tiền nhân để lại.
-
Trong trường học, cần nâng cao hơn nữa trình độ về ngoại ngữ cho học sinh, sinh
viên, cụ thể là Hán ngữ, Pháp ngữ, Anh ngữ.., giúp họ có điều kiện tiếp cận với
các nguồn Sử liệu về Việt Nam viết bằng ngoại ngữ. Hiện nay, chỉ riêng trang
Gallica của Tổng thư viện Pháp đã chứa hàng ngàn tài liệu khác nhau về lịch sử
Việt Nam các thế kỷ 17,18, 19, 20, người có vốn Pháp ngữ tương đối có thể khai
thác nhiều nguồn sử liệu có giá trị.
Gần
đây, các công ty sách, các nhà xuất bản đã làm khá tốt việc dịch và phổ biến
cho công chúng hàng chục tác phẩm viết bằng tiếng Pháp của Paul Doumer,
Silvestre, Philastre, Hocquart, B. Maybon, L. Pallu …
Mặt
khác, các sinh viên tốt nghiệp ban Hán-Nôm bậc đại học cần được tạo điều kiện
tiếp cận với kho sách cổ bằng tiếng Hán-Nôm, đặc biệt là khối lượng đồ sộ các
châu bản triều Nguyễn, để nghiên cứu, dịch thuật, phục vụ cho cộng đồng…
*Xin
cảm ơn nhà nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn.
Song
Chi (thực
hiện)
No comments:
Post a Comment